You are on page 1of 7

Diễn đàn – 31/03/2009

Kịch bản kinh tế Việt Nam năm 2009


và tác động cần làm nhằm ổn định kinh tế

Vũ Quang Việt

Bài này phân tích tình hình hiện nay để nhìn kịch bản có khả năng xảy ra cho cả năm
2009 để từ đó tìm cách điều chỉnh tình hình hiện nay.

Tình hình thực về thống kê xuất nhập khẩu

Việc đầu tiên cần làm là xem xét lại các thống kê chính thức. Trước tiên cần thấy rằng
thống kê về xuất nhập khẩu của Việt Nam không phản ánh đúng nguyên tắc mà các
nước cần thực hiện theo chuẩn mực Liên Hợp Quốc khuyến nghị, mà hiện nay mọi nước
trên thế giới đều chấp nhận, chỉ trừ Cuba và Bắc Hàn. Vàng trừ khi được sản xuất và
dùng làm nguyên liệu trong sản xuất hoặc dùng làm đồ nữ trang thì mới có thể ghi vào
tài khoản sản xuất, và có thể được nhập hay xuất. Vàng trường hợp này là hàng hóa. Khi
vàng được dùng làm phương tiện thanh toán, gọi là tiền vàng (monetary gold) thì bán
hoặc mua qua biên giới không được ghi vào xuất nhập khẩu vì chúng là tiền chứ không
phải là hàng hóa, không ai ghi bán đồng Đô la Mỹ để mua đồng Yen của Nhật, tất nhiên
qua biên giới, là xuất nhập khẩu cả.

Nếu chỉnh lại số liệu xuất nhập khẩu hàng hóa qua biên giới của ba tháng đầu năm thì ta
thấy là xuất khẩu không tăng mà giảm 15% (tính theo giá hiện hành bằng đồng USD).
Như vậy 3 tháng đầu năm Việt Nam vẫn nhập siêu chứ không xuất siêu. Nhập siêu là
615 triệu USD. So với nhập siêu 3 tháng đầu năm 2008 là 1,5 tỷ thì giảm hơn một nửa.
Tình trạng này hoàn toàn do khủng hoảng kinh tế thế giới gây ra. Nhu cầu của nước
ngoài giảm mạnh do đó xuất khẩu giảm mạnh. Thật may mắn là nhập khẩu còn giảm
mạnh hơn, tránh cho cuộc khủng hoảng tiềm tàng về cán cân thanh toán. Nhập khẩu
giảm mạnh vì nhiều lý do trong đó có nguồn tiền nước ngoài không đổ vào như cũ, tác
động của các biện pháp chống lạm phát và các biện pháp ngăn chặn nhập khẩu của các

1
tập đoàn nhằm tránh khả năng xảy ra thêm một cuộc khủng hoảng về cán cân thanh
toán.

Vài nét tổng quan về xuất nhập khẩu

Số liệu cơ bản của Tổng cục Thống kê (TCTK) cho năm 2007 trong bảng 2 cho thấy là
kinh tế Việt Nam dựa dẫm quá nhiều vào kinh tế thế giới. Xuất khẩu bằng 77% GDP và
nhập khẩu bằng 90% GDP. Xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu và hàng gia công. Do tính
chất gia công, nhập khẩu nguyên liệu và máy móc luôn luôn lớn để phục vụ xuất khẩu.
Tính gia công, dựa vào nguyên liệu nhập khẩu này cho thấy là tác dụng lan rộng của kích
thích chi tiêu không có trọng điểm đối với nền kinh tế rất thấp. Hệ số lan rộng theo tác
giả tính chỉ khoảng 1,07, tức là nếu kích thêm 1 đồng tiêu dùng, chỉ khoảng 1,07 đồng
được tạo ra, thêm 7%. Tất nhiên đấy là nói chung, nhưng nếu biết chọn lọc kích thích
những ngành không dựa vào nguyên liệu và máy móc nhập khẩu nhằm phục vụ thị
trường nội địa thì tỷ lệ lan rộng sẽ cao hơn nhiều.

Nếu so với tổng nhập khẩu thì nhập máy móc và hàng tiêu dùng thấp hơn nhiều so với
nhập nguyên liệu và vì vậy các quan chức ở Việt Nam cho rằng nhập để phục vụ sản
xuất không có vấn đề , nhưng nếu so với GDP thì tỷ lệ nhập khẩu hàng tiêu dùng và máy
móc lên tới 22% GDP năm 2007, và 34% năm 2008 (theo ước lượng của tác giả), đi gần
tới chính tỷ lệ tích lũy trên GDP; một con số rất lớn nếu như ta biết rằng tỷ lệ tích lũy
trên GDP của nhiều nước cần cho cất cánh công nghiệp chỉ bằng 25%. Đây là những tỷ
lệ khó giải thích, nếu không muốn nói là nền kinh tế Việt Nam hiện nay hoàn toàn không
có khả năng sản xuất bất cứ một loại máy móc gì, nó thuần túy là một công xưởng gia
công, lắp ráp, và thậm chí nền kinh tế tự bỏ tiền đầu tư mua máy móc để phục vụ các
hợp đồng gia công và lắp ráp này. Có nhiều dấu hiệu là các máy móc mua vào là máy
móc lỗi thời, cần thải từ Trung Quốc. Chính vì thế, thiếu hụt cán cân thương mại với nước
ngoài luôn luôn lớn đang là mối đe dọa thường trực cho sự ổn định của nền kinh tế.
Thiếu hụt đặc biệt lớn với Trung Quốc; năm 2007, nhập từ TQ 12 tỷ, trong khi chỉ xuất
nguyên liệu thô được 3,2 tỷ. Nhập siêu đã lớn từ trước, nhưng đặc biệt lớn trong năm
2008, lên tới 18 tỷ USD, bằng hơn 20% GDP. Theo chuẩn mức quốc tế thông thường,
ngưỡng tỷ lệ nhập siêu vượt 3% là đèn báo hiệu cho sự cần thiết điều chỉnh nền kinh tế.

2
Bảng 1. Xuất nhập khẩu qua hải quan 3 tháng đầu năm trong 3 năm 2007-2009

(USD, giá hiện hành)

Tăng giảm
giá trị năm
2007 2008 2009
2009 so với
2008

Xuất khẩu (tỷ US) 10,615 13,114 11,192 3%

(Từ hải quan kể cả xuất vàng) 10,615 13,161 13,479 -15%

Tỷ lệ cơ cấu xuất khẩu (%)

Đầu tư nước ngoài 55,8 58,9 43,8 -37%

Nội địa 44,2 41,1 56,2 17%

Nông nghiệp 21,2 17,7 23,5 14%

Than đá 2,3 2,0 2,3 -1%

Dầu thô 16,6 19,9 12,7 -45%

Hàng công nghiệp 39,4 45,6 46,7 -13%

Nhập khẩu (tỷ US) 12,550 19,979 11,807 -41%

(Từ hải quan kể cả nhập vàng) 12,550 21,509 11,832 -45%

Tỷ lệ cơ cấu nhập khẩu (%)

Đầu tư nước ngoài 35,0 32,1 36,7 -32%

Nội địa 65,0 67,9 63,3 -45%

Hàng tiêu dùng 5,2 8,0 7,8 -42%

Hàng nguyên liệu 56,3 67,3 55,5 -51%

Hàng tích lũy 18,9 17,1 20,1 -30%

Nguồn: Bộ Công Thương

3
Kịch bản cơ sở về sản xuất cả năm 2009

Tổng cục Thống kê cho đến nay vẫn chưa công bố chi tiết về tài khoản quốc gia cho năm
2008 nên để làm kịch bản cơ sở, tác giả cũng phải xây dựng kịch bản cho năm 2008 và
từ đó xây dựng cho năm 2009. Mô hình sử dụng là mô hình sản xuất vào-ra (input-
output model) đơn giản, chứ không phải là mô hình dự báo, do đó dựa vào một số giả
thiết, nếu giả thiết thay đổi thì kết quả cũng thay đổi.

Tình trạng kinh tế thế giới hiện đang tồi tệ đi. Quí 4 năm 2008, ở Mỹ, GDP giảm 6%. Quí
I năm 2009, GDP ở Nhật giảm 12%, ở Đài Loan giảm 8,4%, ở TQ chỉ tăng 6.8% so với
13% năm 2008. Ngân hàng Thế giới dự báo là năm 2009 sản xuất công nghiệp toàn cầu
sẽ giảm 15%, và lần đầu tiên trong 80 năm xuất nhập khẩu sẽ giảm. Các tổ chức quốc
tế cũng đưa ra những dự báo rất xấu tương tự.

Theo Tổng cục Thống kê, GDP Việt Nam chỉ tăng 3,1% vào 3 tháng đầu năm. Tình hình
kinh tế Việt Nam sẽ tồi tệ hơn vì quí I có thể vẫn còn những đơn đặt hàng của thời mà
kinh tế thế giới chưa quá tồi tệ; những quí sắp tới sẽ phản ánh rõ hơn các tác dụng tiêu
cực của kinh tế thế giới. Xuất khẩu có thể giảm mạnh hơn chứ không chỉ ở mức 15%
(theo giá hiện hành) của 3 tháng đầu năm, nếu không có biện pháp kích thích xuất khẩu
như chủ động giảm giá đồng Việt Nam, kêu gọi các nhà sản xuất chủ động giảm giá, kể
cả không có lời, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước, để làm hàng hóa Việt Nam có sức
cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới và khuyến khích tiêu dùng trong nước.

Có thể nói chính sách kích cầu 1 tỷ bằng bù lỗ lãi suất của chính phủ chưa thể có tác
dụng gì đến sản xuất và GDP trong quí I này. Nhưng dù có triển khai thì kích cầu bằng
bù lỗ sẽ không đạt hiệu quả vì vài lý do sau: (1) đây là biện pháp kích cung chứ không
phải là kích cầu, cầu không có thì biện pháp này chỉ làm tăng thêm lợi nhuận cho công ty
vì được trả lãi suất thấp (2) việc dùng tiền cho vay đáo nợ là chuyện đương nhiên và
không thể kiểm soát được, dù chính phủ muốn, vì người vay dễ dàng mượn ở một ngân
hàng và đáo nợ ở một ngân hàng khác, (3) nếu tiếp tục và chuyển thành kích tích lũy,
đặc biệt là mở rộng cho việc nhập máy móc nước ngoài, thì sẽ tăng thêm thiếu hụt cán
cân thanh toán, vừa phí phạm vừa kích tham nhũng, nhưng không lấp nổi chỗ trống do
xuất khẩu giảm gây ra. Và chỗ trống đó ít nhất lên tới 5,6 tỷ USD trong năm 2009.

4
Bảng 2. Kịch bản cho năm 2009, tính theo tỷ USD theo giá năm 2007

tăng, giảm 2009


2007 2008 2009
so với 2008

Xuất khẩu 54,7 58,5 52,6 -10%

Nhập khẩu 64,2 74,7 64,6 -15%

Nhập khẩu cho sản xuất 48,2 51,1 52,8 3%

Nhập khẩu tiêu dùng, tích luỹ 16,1 23,6 11,8 -50%

Cán cân thương mại -9,6 -16,2 -12,0 -30%

Tích lũy 29,6 34,1 32,4 -5%

Tiêu dùng cuối cùng 50,5 57,0 57,0 0%

GDP 70,6 74,9 77,4 3,4%

% GDP 6,1% 3,4%

Chú thích: chỉ có số liệu năm 2007 là chính thức từ TCTK, các số liệu khác tính dựa vào
mô hình.

Trên cơ sở kết quả sản xuất 3 tháng đầu năm, nếu cho rằng xuất khẩu cả năm giảm
10% (tính theo giá của năm 2007, tương đương với 15% theo giá hiện hành) và nhập
khẩu giảm 15%, trong đó nhập cho tiêu dùng và tích lũy giảm 50%, tích lũy giảm 5%,
còn tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình và chính phủ không tăng thì GDP sẽ tăng 3,4%
năm 2009, và cán cân thương mại thiếu hụt khoảng 12 tỷ USD. Ta thấy mọi yếu tố đều
giảm thì tại sao GDP lại có thể tăng (xem cột cuối của bảng 2)? Tăng sản xuất và GDP
trong trường hợp này chính là do chuyển tiêu dùng cuối cùng, và tích luỹ từ hàng nhập
sang hàng sản xuất trong nước.

Mô hình này cho thấy chỉ cần giảm tỷ lệ nhập khẩu nguyên liệu dùng trong sản xuất 5%
thôi thì mô hình cho thấy cùng với kịch bản ở bảng 2 GDP có thể tăng 7,7% thay vì
3,4% . Trung Quốc là một nền kinh tế công xưởng, vì họ sản xuất ra hầu hết các nguyên
liệu dùng trong sản xuất, còn Việt Nam là một nền kinh tế gia công, do một tỷ lệ lớn
nguyên liệu (đến gần 40%) dựa vào nhập khẩu. Điều này nói lên sự cần thiết ở Việt Nam
một chiến lược phát triển công nghiệp phụ trợ mà nhiều nhà kinh tế đã nói tới. Và năm

5
2009, nếu không có biện pháp thích hợp thì việc thả lỏng cho nhập khẩu kể cả cho tích
lũy và tiêu dùng như năm 2008 chắc chắn sẽ làm GDP tăng với số âm lớn.

Kết quả của mô hình cho thấy là nếu tình hình cứ như 3 tháng đầu năm thì GDP cả năm
khó tăng hơn 3% và có nguy cơ âm nếu xuất khẩu xấu đi.

Nếu dùng chính sách phát huy nhập khẩu theo nghĩa thay đổi máy móc đã cũ trong lúc
này thì tình hình có thể xấu hơn, vì cán cân thương mại sẽ âm lớn hơn. Thay đổi máy
móc là quyết định của thị trường chứ không nên là quyết định bơm tiền cho doanh
nghiệp nhà nước làm chuyện này.

Cho nên biện pháp kích cầu hữu hiệu đối với nền kinh tế Việt Nam có những đặc thù
riêng thì phải là kích cầu tiêu thụ của thành phần mà sản xuất không dựa vào nhập khẩu
nguyên liệu và người tiêu thụ nghèo không chạy mua hàng hóa cao cấp nhập khẩu: đó
chính là nông dân và công chức nhà nước.

Chính sách kích cầu và hiểu sai các nguyên tắc kinh tế học

Chính sách kích cầu, dù kiểu gì, cũng chỉ là biện pháp nhằm giảm thiểu các khó khăn
nhất thời để chờ nền kinh tế trở về quân bình. Khi nền kinh tế mang tính khủng hoảng
cấu trúc như ở Việt Nam thì các biện pháp dùng tiền nhà nước để kích trở thành nguy
hiểm.

Hiện nay dùng tiền nhà nước nghĩa là gì? Phải chăng là từ ngân sách vì đây là điều mà
tất cả mọi người có hiểu biết về kinh tế đều nghĩ thế? Ở Việt Nam thì không thế. Hôm
20-3-2009 BT Võ Hồng Phúc trả lời chất vấn UBTV Quốc hội về gói kích cầu 1 tỷ USD,
trong đó có nói tiền kích cầu lấy từ dự trữ ngoại hối quốc gia, do hoạt động ngân hàng
mà có, không thuộc ngân sách nhà nước. Đây là chuyện hiểu lạ. Ngân hàng Nhà nước
không làm kinh doanh mà chỉ có mục đích điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là bảo
vệ giá trị đồng bạc Việt Nam. Tiền Việt mà NHNN in để mua vào tiền nước ngoài, chính là
hình thức tăng khối lượng tiền mặt nội địa và rút đi ngoại tệ, khối lượng tiền dùng trong
lưu thông không tăng vì khối lượng tiền phải được hiểu là gồm nội tệ, ngoại tệ và vàng
dùng trong lưu thông nằm ngoài NHNN. Bây giờ nhà nước muốn có tiền tiêu, lấy dự trữ
ngoại hối, có nghĩa là in khống, tăng khối lượng tiền để tiêu. Đáng lẽ ngân sách muốn bù
lỗ lãi suất thì phải bán trái phiếu chính phủ ra thị trường chứ không thể dùng dự trữ
ngoại hối như thế. Đây rõ ràng là biện pháp in khống tiền để chi, và lại nằm ngoài ngân
sách. Và thật ra việc in khống này vẫn không liên quan gì đến quĩ dự trữ ngoại hối, trừ
khi Bộ Tài chính ra lệnh cho NHNN đưa tiền ngoại tệ từ quĩ dự trữ cho mình tiêu.

6
Hiện nay bù lãi suất 1 tỷ USD (17 ngàn tỷ đồng) theo cách in tiền như vừa qua chưa tạo
ra ảnh hưởng tới lạm phát cũng là cái may vì số tiền này chưa tạo ra tín dụng mới mà
chủ yếu là đáo nợ. Với một tỷ bỏ ra bù lỗ, thì số tín dụng mới có thể tạo ra là 25 tỷ USD,
tức là tăng thêm là 25%. so với tổng tín dụng năm 2008 là 97 tỷ USD (1.687 ngàn tỷ
đồng). Nếu chỉ nói đến 2 tỷ USD (chứ chưa nói đến 6 tỷ mà chính phủ đã nói nhưng chưa
làm), thì mức tăng tín dụng sẽ là 50% so với năm 2008, đây là tỷ lệ tăng của năm 2008
-- nguyên nhân của lạm phát nhảy vọt. Trong trường hợp này, Việt Nam sẽ vừa có lạm
phát cao vừa suy thoái, mà ta có thể cần một từ mới, có thể là lạm suy cho ngôn ngữ
tiếng Việt. Cho nên dù chính sách kiểu gì, thì NHNN vẫn phải bảo đảm tổng tín dụng năm
2009 không tăng hơn 20-25%, và nếu như lạm phát bắt đầu tăng mạnh thì suất tăng tín
dụng có thể phải thấp hơn, và phải bảo đảm có sự độc lập nhất định giữa NHNN và ngân
sách.

Vũ Quang Việt

You might also like