You are on page 1of 9

Câu 6: Các đặc điểm của thị trường thế giới hiện đại: (tham

khảo thêm trong tập)


1. Xu thế toàn cầu hoá ngày càng tăng. Thị trường thế giới đang tiến dần đến một
thể chế thống nhất dưới sự thúc đẩy của các tổ chức thương mại đa quốc gia mà
đặc biệt là tổ chức thương mại thế giới WTO.
2. Thị trường thế giới mang tính chất TBCN bao trùm.
3. TTTG hiện đại là một thị trường rẩt khó tính, khắt khe mang tính đặc thù và cụ
thể của từng thị trường quốc gia, khu vực.
4. Thị trường ngày càng chịu sự chi phối mạnh của các yếu tố phi kinh tế: chất
lượng, thương hiệu, kênh phân phối tiêu thụ,…
5. Thị trường thế giới hiện đại bị lũng đoạn hóa cao bởi các tập đoàn tư bản, tài
chính, ngân hàng quốc tế lớn.
6. Thị trường tập trung trong tay các nước phát triển (G7).
7. TTTGHĐ giảm vai trò buôn bán giữa các nước phát triển và đang phát triển.
8. Trên thị trường thế giới hiện đại các nước đang phát triển luôn ở vào thế bất lợi so
với các nước phát triển. Trong quan hệ buôn bán nước ngoài.
9. TTTGHĐ có hệ thống giá cả mang tính đặc thù của nó.
10. Tăng nhanh buôn bán về các mặt hàng thành phẩm và bán thành phẩm công
nghiệp, giảm mạnh các mặt hàng sơ chế, nông nguyên nhiên liệu, LTTP.
11. Cạnh tranh ngày càng quyết liệt, theo hướng chọn các công cụ cạnh tranh gián
tiếp, phi giá và hiện đại.
12. Tăng cường vai trò của các công cụ thanh toán tín dụng, chứng từ, giảm thiểu
thanh toán bằng tiền mặt.
13. Thị trường châu á – thái bình dương đang chi phối mạnh mẽ đến thị trường thế
giới.
Cơ hội và thách thức của xuất khẩu nông sản VN:
Cơ hội:
• Thị trường thế giới ngày càng rộng mở nhất là khi VN đang chuẩn bị gia nhập
WTO vào cuối 2006. Điều này có nghĩa là nông sản của ta sẽ có cơ hội thâm
nhập vào các thị trường mới đầy tiềm năng và nếu đi đúng hướng, chúng ta sẽ
không còn phải loay hoay lo lắng về đầu ra cho nông sản nữa..
• Đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng trong lĩnh vực kinh doanh nông nghiệp,
sơ chế hoặc chế biến nông sản, mở mang những vùng đất hoang hóa, sản xuất
những sản phẩm nông nghiệp độc đáo => thúc đẩy công nghiệp chế biến nông
sản phát triển mang lại giá trị cao hơn cho các nông sản xuất khẩu của VN
• Cơ hội cho nông dân VN tiếp cận nhanh hơn với các thành tựu khoa học kỹ
thuật mới của nông nghiệp thế giới (giống mới, các phương pháp canh tác
mới,…), rồi từ đó, nông sản VN sẽ có lợi thế cạnh tranh lớn hơn trên thị
trường thế giới về nhiều mặt. (chứ không chỉ đơn thuần là về giá cả như hiện
nay).
Thách thức:
• Việt Nam chưa hình thành được các vùng chuyên canh sản xuất hàng tươi
sống và vùng nguyên liệu tập trung cho các nhà máy chế biến lớn theo yêu
cầu kỹ thuật và kinh tế. (Gạo của Việt Nam chưa đảm bảo độ đồng nhất về
quy cách chất lượng ngay trong từng lô gạo, bao bì đóng gói kém hấp dẫn và
chưa có nhãn thương hiệu của doanh nghiệp mình trên vỏ bao bì). Điều đó
làm cho giá xuất khẩu của nông sản Việt Nam thấp hơn các nước khác.
• Phần lớn các loại giống cây con hiện đang được nông dân sử dụng có năng
suất và chất lượng thấp hơn so với các nước trên thế giới và các đối thủ cạnh
tranh trong khối ASEAN. Trên địa bàn cả nước chưa hình thành được một hệ
thống cung ứng giống cây con tốt cho người sản xuất, từ giống tác giả, giống
nguyên chủng cho đến giống thương phẩm. Hầu hết người nông dân đã tự sản
xuất giống cây con cho mình từ vụ thu hoạch trước hoặc mua giống trên thị
trường trôi nổi mà không có sự đảm bảo về chất lượng, đặc biệt là giống các
loại cây ăn quả, cây lương thực, cây rau…(Năng suất lúa của Việt Nam chỉ
bằng 61% năng suất lúa của Trung Quốc và thấp thua nhiều so với lúa của
Nhật Bản, Italia, Mỹ. Năng suất cà chua của ta chỉ bằng 65% năng suất cà
chua thế giới, cao su Việt Nam mới đạt năng suất 1,1 tấn/ha, so với năng suất
thế giới là 1,5 - 1,8 tấn/ha - thấp hơn tới 30-40%).
• So với các đối thủ cạnh tranh, Việt Nam có công nghệ chế biến lạc hậu, chưa
đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu tiêu dùng của các thị trường khó
tính như Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ. Mặt khác, kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc
vận chuyển, bảo quản dự trữ, bốc xếp hàng hóa nông sản, nhất là hàng tươi
sống rất yếu kém nên giá thành sản phẩm và phí gián tiếp khác tăng nhanh.
(Do công suất bốc xếp ở cảng Sài Gòn là 1000 tấn/ngày chỉ bằng 1/2 công
suất cảng Băng Cốc (Thái Lan), cho nên cảng phí cho 1 tàu chở gạo 10000 tấn
ở Việt Nam là 40000 USD, còn ở cảng Băng Cốc là 20000 USD, như vậy là
chi phí tại cảng trong khâu bốc xếp của Việt Nam đã cao hơn gấp đôi so với
cảng Băng Cốc.)
• Năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, chế biến và xuất khẩu nông sản chưa
đáp ứng được yêu cầu trong điều kiện tự do hóa thương mại, đặc biệt là khâu
marketing, dự tính dự báo thị trường. Mối liên kết kinh tế giữa các khâu sản
xuất - chế biến - xuất khẩu, giữa khâu cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ sản
phẩm đầu ra, giữa khâu kỹ thuật với khâu kinh tế... chưa thiết lập được một
cách vững chắc để đảm bảo sự ổn định về số lượng và chất lượng cũng như
hiệu quả sản xuất kinh doanh hàng nông sản xuất khẩu theo yêu cầu của thị
trường.
• Tuy chủng loại hàng hóa xuất khẩu của ta đa dạng hơn nhưng nhìn chung thì
diện mặt hàng vẫn còn khá đơn điệu, chưa có sự thay đổi đột biến về chủng
loại, về chất lượng, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào một vài mặt hàng chủ lực,
truyền thống như gạo, cà phê, cao su, hải sản… mà phần lớn chúng đều tiềm
ẩn nguy cơ tăng trưởng chậm dần do gặp phải những hạn chế mang tính cơ
cấu như diện tích có hạn, năng suất có hạn, khả năng khai thác có hạn… và
khả năng cạnh tranh ngày càng giảm dần.
• Bộ máy quản lý hành chính Nhà nước vẫn còn quan liêu, trì trệ, chưa thông
thoáng và bảo thủ đã làm nản lòng các nhà đầu tư kinh doanh trong và ngoài
nước và làm tăng giá thành sản xuất và giá thành sản phẩm xuất nhập khẩu.
Do vậy, lợi thế tiềm năng không thể phát huy hết được.
• Trong quá trình tự do hóa thương mại, một số doanh nghiệp kinh doanh hàng
nông, lâm, thủy sản làm ăn thua lỗ, không có khả năng cạnh tranh sẽ bị phá
sản theo quy luật. Điều bất lợi này Việt Nam cũng phải chấp nhận một cách tự
nhiên, bình thường theo vận hành của quy luật kinh tế thị trường. Một số mặt
hàng nông sản tiêu thụ nội địa trong nhiều năm qua sẽ bị cạnh tranh và giảm
dần hoặc mất thị trường ngay trên quê hương mình. Điều đó cũng dễ hiểu và
chúng ta phải tiếp nhận nó như một việc bình thường, không phải chỉ đối với
nước ta mà đối với tất cả các nước khác. Nhưng trước mắt, điều bất lợi này sẽ
gây ra những tác động tiêu cực tạm thời cả trên lĩnh vực kinh tế - xã hội và
chính trị.
Tóm lại, xét về tổng thể, hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam tuy đã đạt
được nhiều thành tích đáng khích lệ và có nhiều lợi thế cần được khai thác, nhưng
vẫn còn nhiều tồn tại và bất lợi. Những tồn tại và bất lợi này đều có sự liên quan
chặt chẽ với nhau, vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của nhau, và nếu chúng ta
không đề ra được biện pháp giải quyết cụ thể thì chúng sẽ trở thành những thách
thức vô cùng to lớn cho xk nông sản nước ta vào thị trường thế giới.
c âu 7. Cơ hội và thách thức của việc gia nhập WTO:

3.1. Cơ hội
1. Việt Nam sẽ có những cơ hội thuận lợi cơ bản khi là thành viên của WTO như
sau: Hưởng những ưu đãi thương mại, tránh được tình trạng bị phân biệt đối xử,
nângcao thế và lực trong thương mại quốc tế
Với tư cách là nước thành viên WTO, Việt Nam sẽ được hưởng các ưu đãi trong
thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu tư mà các nước thành viên giành cho nhau
thông qua Chế độ đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN), Chế độ Đãi ngộ quốc gia (NT),
tránh được tình trạng bị phân biệt đối xử, gây bất lợitrong quan hệ kinh tế –
thương mại.
Với tư cách là một nước đang phát triển ở trình độ phát triển thấp, Việt Nam còn
có thể được hưởng những ưu đãi riêng về miễn trừ, ân hạn trong việc thực hiện
các nghĩa vụ thành viên cũng như trong việc tiếp cận thị trường để bán các sản
phẩm của mình.
Việt Nam có thể sử dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để bảo vệ
quyền lợi chính đáng của mình trong trường họp có tranh chấp thương mại với
các nước thành viên, đặc biệt khi nước thành viên đó là cường quốc về kinh tế.

2. Có cơ hội mở rộng thị trường, tăng cường xuất khẩu


Tham gia WTO, Việt Nam sẽ tham gia vào một hệ thống thương mại rộng mở, tự
do và bình đẳng, có cơ hội tiếp cận thị trường của trên 130 quốc gia với những
hàng rào thương mại ngày càng được hạ thấp, được hưởng các cam kết ư đãi, mở
cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ, đầu tư mà các nước thành viên dành cho nhau
thông qua kết quả các vòng đàm phán tự do hoá thương mại, mở cửa thị trường.
Việc gia nhập vào WTO như vậy sẽ tạo được môi trường thông thoáng cho phát
triển kinh tế, mở rộng thị trường về mọi mặt, đặc biệt là cho hoạt động xuất khẩu
của Việt Nam với những mặt hàng có ưu thế như gạo, cà phê, hàng dệt may, giày
dép…

3. Tăng thu hút đầu tư và sự chuyển giao kỹ thuật, công nghệ cao từ các nước
Việc tham gia và chấp nhận các luật lệ, quy tắc của WTO, Việt Nam sẽ tạo lập và
củng cố lòng tin của các nước vào cơ chế chính sách của Việt Nam trên cơ sở đó
tạo sự hấp dẫn để các nhà đầu tư nước ngoài an tâm đầu tư vào Việt Nam. Đồng
thời, Việt Nam cũng tăng thêm cơ hội tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi, các hình
thức tín dụng, tài trợ của các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF….

4. Nâng cao vị trí quốc tế của Việt Nam, tạo thế đứng vững chắc hơn cho Việt
Nam trong quan hệ quốc tế
Việt Nam sẽ có cơ hội tham gia các cuộc đàm phán đa phương, giải quyết các nhu
cầu về thị trường vì các quyền lợi chính đáng của mình. Như vậy, Việt Nam có
điều kiện, cơ hội góp tiếng nói vì lợi ích các nước đang phát triển, nắm bắt tốt hơn
các xu thế quốc tế cũng như sự điều chỉnh chính sách kinh tế thương mại của các
nước khác, từ đó xác định được hướng điều chỉnh phù hợp với tiến trình chung và
khai thác triệt để những cơ hội có lợi nhất cho mình.

5. Tăng sức cạnh tranh, nâng cao hiệu quả


Hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho các nhà sản xuất kinh doanh Việt Nam mở rộng
quan hệ làm ăn, chấp nhận cạnh tranh, nâng cao chất lượng quản lý và sản xuất,
tiếp thu khoa học công nghệ mới, nâng cao hiệu quả hoạt động.
3.2. Thách thức
Gia nhập WTO cũng đặt ra những thách thức lớn đối với nền kinh tế nói chung, cũng như
từng lĩnh vực hoạt động, các doanh nghiệp:
(1) Nguyên tắc đối xử quốc gia - NT đã được thể hiện trong việc Quốc hội nước
ta vừa thông qua Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư áp dụng thống nhất cho mọi loại
hình doanh nghiệp và các dự án đầu tư, sẽ tạo ra sức ép về năng lực cạnh tranh đối với
doanh nghiệp trong nước, nhất là các doanh nghiệp đang được bảo hộ mạnh mẽ, có vị thế
độc quyền như điện lực, viễn thông, hàng không, hàng hải...
(2) Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sẽ làm gia tăng đáng kể chi phí mua bản
quyền, sáng chế phát minh của nước ngoài. Hiệp định vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ làm
gia tăng chi phí đầu tư của các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản và thực phẩm để bảo
đảm các tiêu chuẩn quốc tế.
(3) Việc giảm thiểu hàng rào thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan tác động
mạnh đến các ngành đang được bảo hộ cao như ô tô, xe máy, hoá chất, tin học, điện tử.
(4) Việc mở rộng dịch vụ phân phối hàng hoá tạo sức cạnh tranh đối với các
doanh nghiệp thương mại của Việt Nam và cuối cùng, việc giảm thiểu trợ cấp xuất khẩu
nông sản sẽ tác động đến một số sản phẩm nông nghiệp và các doanh nghiệp nhà nước
tham gia xuất khẩu nông sản...
câu 10: rào cản cho VN khi XK sang:
EU:
Những chú ý cần thiết khi doanh nghiệp đưa hàng hoá vào EU:
Chú ý về tập quán và thị hiếu tiêu dùng:
EU là một hệ thống gồm 15 quốc gia (không kể 10 nước Đông Âu vừa mới kết nạp),
lãnh thổ trải rộng khắp Châu Âu với khoảng 378 triệu người tiêu dùng. Tuy nhiên, Liên
minh Châu Âu không phải là một thực thể văn hoá có sự đồng nhất về suy nghĩ, thái độ
cũng như cách ứng xử. Thị trường EU chỉ thống nhất về mặt kỹ thuật, còn trong thực tế,
EU là một nhóm thị trường quốc gia và khu vực, mỗi nước có một bản sắc và đặc trưng
riêng. Chính vì thế mà nhu cầu của thị trường EU rất phong phú và đa dạng.
Người Châu Âu nhìn chung có thói quen sử dụng hàng hiệu và có những yêu cầu
khắt khe về chất lượng và vệ sinh, nhưng sở thích và thói quen tiêu dùng trên thị trường
này cũng thay đổi nhanh chóng cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật.
Do đó, ngày nay người tiêu dùng Châu Âu thích những sản phẩm có chu trình sống ngắn,
giá rẻ… nhưng vẫn phải đảm bảo những tiêu chuẩn chất lượng và phương thức phục vụ
tốt hơn.
Chú ý về chính sách thương mại của EU:(quan trọng)
a. Chính sách thuế suất nhập khẩu:
Tất cả các thành viên của Liên minh Châu Âu đều áp dụng chung một chính sách
ngoại thương, sử dụng thống nhất một biểu thuế nhập khẩu cho hàng hoá của tất cả các
nước ngoại khối với 2 loại thuế suất là: thuế suất MFN và thuế suất thông thường.
Ngày 15/2/2003, Ủy ban Châu Âu và Việt Nam đã ký kết Hiệp định lợi ích chung
về thương mại. Hiệp định này có hiệu lực trong vòng 3 năm, đến năm 2005. Nội dung
chủ yếu của Hiệp định:
EU sẽ tăng quota nhập khẩu hàng dệt may cho Việt Nam từ 50% đến 70% tùy theo
loại sản phẩm. Giá trị ước tính là 200 triệu EURO vào năm 2003 và 225 triệu EURO vào
năm 2004 và 2005. Theo hiệp định này, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam sẽ tăng khoảng ¼, với mức hơn 1 triệu EURO cho lần đầu tiên.
Việt Nam cam kết giảm thuế quan cho hàng dệt may nhập khẩu vào EU từ 20%
xuống còn 12% cho hàng dệt, 7% cho chỉ sợi và 5% cho tơ sợi vào năm 2005 hoặc ít hơn
½ thuế hiện tại.
Bảng 3: Thuế nhập khẩu tối đa EU áp dụng cho hàng dệt may Việt Nam
Đơn vị tính: %
Loại sản phẩm 2003 2004 2005
Quần áo 30 25 20
Hàng dệt và các sản phẩm dệt 20 16 12
Chỉ sợi 12 10 7
Tơ sợi 7 6 5
Nguồn: Bộ Thương mại Việt Nam
b. Chính sách tạo môi trường thương mại bình đẳng:
Để đảm bảo cạnh tranh công bằng trên thị trường, EU thực hiện các biện pháp
như:
- Chống phá giá (anti-dumping);
- Chống trợ cấp xuất khẩu;
- Chống hàng giả.
c. Chính sách ưu đãi dành cho các nước đang phát triển:
Hiện nay, để thúc đẩy nền kinh tế, EU sử dụng các biện pháp đẩy mạnh thương
mại với các nước đang phát triển và chậm phát triển, đặc biệt là các nước thuộc khu vực
Châu Á. Mặt khác, EU sử dụng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) để tạo điều kiện
cho các nước thâm nhập vào thị trường EU. Trong đó, có 4 nhóm sản phẩm của các nước
đang phát triển được hưởng GSP:
Nhóm 1: Sản phẩm rất nhạy cảm: Đây là nhóm hàng mà EU hạn chế nhập khẩu;
thuế suất bằng 85% MFN; gồm các mặt hàng như: chuối tươi, dứa hộp, quần áo may sẵn,
tơ tằm…
Nhóm 2: Sản phẩm nhạy cảm: Đây là nhóm hàng mà EU không khuyến khích
nhập khẩu; thuế suất bằng 70% MFN; gồm các mặt hàng: thực phẩm, đồ uống, hoá chất,
nguyên liệu…
Nhóm 3: Sản phẩm bán nhạy cảm: Thuế suất bằng 35% MFN, gồm các mặt
hàng như thủy sản đông lạnh…
Nhóm 4: Sản phẩm không nhạy cảm: Thuế nhập khẩu của nhóm từ 0-10%, đây là
nhóm các loại nông sản.
Chú ý về rào cản kỹ thuật:
Ở từng sản phẩm đều có những quy định khác nhau về tiêu chuẩn kỹ thuật của sản
phẩm đưa vào EU do 3 tổ chức của Châu Âu xây dựng:
+ CEN – Ủy ban Châu Âu về tiêu chuẩn hoá;
+ CENELEC – Ủy ban Châu Âu về kỹ thuật điện;
+ ETSI – Viện tiêu chuẩn Viễn thông Châu Âu.
Mỗi doanh nghiệp khi xuất khẩu sản phẩm cần nắm:
Quy định kỹ thuật đối với sản phẩm;
Quy định về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm;
Quy định về tiêu chuẩn doanh nghiệp phải có khi xuất khẩu;
Quy định về môi trường;
Quy định về sử dụng lao động;
Quy định về ký mã hiệu và bao bì của sản phẩm;
Quy định về chứng nhận xuất xứ hàng hoá;
Quy định về vận tải hàng hoá đến EU.
NB
Nhật Bản và việc sử dụng các rào cản thương mại
Ngay phat tin: 21/11/05

- Nhật Bản đang tiến hành rất nhiều các hiệp định FTA song phương và đa
(Vinanet-21/11/2005)
phương trong khu vực. Là một trong những thị trường hấp dẫn, nhưng khá khắt khe. Nền kinh tế
Nhật Bản đang tham gia mạnh mẽ vào quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế. Điều này
được thể hiện rất rõ bằng việc Nhật bản liên tục ra đời các Hiệp định kinh tế gắn kết nền kinh tế
các nước, khu vực với nhau.

Chính các Hiệp định này đã ràng buộc các nước dành cho nhau những ưu đãi bình đẳng về
chính sách thương mại, đặc biệt là về thuế quan. Do đó, tự bản thân các nước khi đã tham gia
các Hiệp định đều không tự ý đặt ra các mức thuế nhập khẩu riêng với mục đích làm rào cản
hàng nhập khẩu của các nước tham gia Hiệp định. Vì vậy, thuế nhập khẩu- vốn là biện pháp rào
cản thương mại lâu đời, được sử dụng rộng rãi ngày nay không còn được sử dụng nhiều nữa.
Thay vào đó, các nước ngày càng sử dụng nhiều biện pháp phi thuế quan dưới các hình thức
tinh vi hơn để làm rào cản nhập khẩu những hàng hoá không khuyến khích nhập khẩu.

Các biện pháp rào cản thương mại cụ thể ở Nhật Bản, ngoài biện pháp thuế quan thông thường
được tính theo mức thuế suất còn có biện pháp áp thuế giá trị tuyệt đối và các biện pháp phi thuế
quan, chẳng hạn:

- Thuế nhập khẩu được tính là mức cao hơn của mức tính dựa theo thuế suất và mức giá trị
tuyệt đối. Với cách tính này, hàng hoá có giá thành thấp từ các nước đang phát triển, phí nhân
công rẻ chịu mức thuế cao bằng mức giá trị tuyệt đối.
Như trường hợp giày làm bằng da 100% nhập khẩu vào Nhật sẽ chịu mức thuế là 30% giá CIF
hoặc 4300 yên/đôi, lấy theo mức cao hơn. Trong khi giày da sản xuất tại Việt nam thường có giá
thành thấp, nên 30% giá CIF thường thấp hơn nhiều so với mức 4.300 yên/đôi. Với cách tính
thuế này thì giày da có chất lượng thấp dù có giá thành sản xuất thấp cũng không có cơ hội tiêu
thụ tại thị trường Nhật Bản.

Vì vậy giày da Việt nam, muốn XK sang Nhật Bản cần phải làm loại có chất lượng thật tốt để
người tiêu dùng có thể chấp nhận được với mức giá cao (do thuế nhập khẩu cao). Hoặc là khi
sản xuất giày, riêng phần đế làm giả da thì thuế nhập khẩu sẽ giảm xuống còn 27%. Tuy nhiên,
điều này còn phụ thuộc vào chất lượng, mẫu mã, khả năng tiêu thụ mà nhà sản xuất sẽ phải có
điều chỉnh hợp lý.

- Quy định kiểm tra chặt chẽ, cấp phép nhập khẩu đối với một vài chi tiết cấu thành sản phẩm
hay tính thuế nhập khẩu dựa vào tỉ lệ của một số vật liệu nhất định trong sản phẩm. Chẳng hạn
như sản phẩm sợi có tỉ trọng lượng lông cừu chiếm trừ 85 % trửo lên sẽ chụi mức thuế 2,7%
(nếu dưới 85% mức thuế chỉ có 0%). Cũng giống như vậy đối với các sản phẩm làm từ tơ tằm.
Những nhà sản xuất, XK mặt hàng này cần nắm vững cách tính thuế trên đây để có biện pháp
điều chỉnh tỉ trọng các vật liệu một cách hợp lý.

- Biện pháp đánh thuế leo thang cũng đang được các nước phát triển áp dụng khá phổ biến đối
với hàng nhập khẩu từ các nước đang phát triển. Đặc biệt là Nhật Bản đang áp dụng hình thức
đánh thuế nhập khẩu này với mức chênh lệch rất cao giữa việc nhập nguyên liệu, bán thành
phẩm và thành phẩm. Chẳng hạn như đối với cà phê: thuế nhập khẩu nguyên liệu hạt là 0%;
nhập khẩu sản phẩm cà phê hoà tan là 8% và thành phẩm cà phê có đường lên tới 24%. Tương
trự như vậy đối với sản phẩm da: gia nguyên liệu có thuế nhập khẩu 0- 3,5%, tỏng khi sản phẩm
da từ 7,1- 27%; thuế nhập khẩu nguyên liệu bông là 0%, trong khi đó thuế nhập khẩu áo thành
phẩm làm bằng sợi bông là 10,9%…

-Áp dụng biện pháp tự vệ (Save guard) cho phép theo khuôn khổ WTO. Từ năm 2001- 2004,
Nhật Bản liên tục đưa khăn bông nhập khẩu từ Việt nam và Trung Quốc vào đối tượng điều tra
tốc độ tăng nhập khẩu, đánh giá mức độ ảnh hưởng đến sản xuất trong nước trong từng đợt 6
tháng/lần trước khi đi đến quyết định áp dụng biện pháp tự vệ. Sau quá trình điều tra cùng với
việc liên tục thông báo kết quả điều tra cho nước XK để có biện pháp điều chỉnh, đến tháng
4/2004 Nhật Bản mới chấm dứt quá trình điều tra và không áp dụng biện pháp này nữa. Để tránh
không bị Nhật Bản áp dụng biện pháp này, DN Việt nam cần thường xuyên theo dõi phản ứng
của phía Nhật về việc này để kịp thời có điều chỉnh và vận động Chính phủ Nhật một cách hợp
lý.

- Những năm gần đây, yêu cầu về vệ sinh đối với hàng hoá nhập khẩu ngày càng nâng cao.
Điều này, về mặt nào đó đã làm cản trở đến những sản phẩm nhập khẩu vào Nhật, đặc biệt đối
với những hàng hoá khi sử dụng có tiếp xúc trực tiếp với việc ăn uống của con người. Ví dụ như
phin ca phê, thìa, khay đựng bánh mỳ… Việt nam XK sang Nhật Bản sẽ phải trải qua các bước
kiểm tra an toàn vệ sinh rất chặt chẽ theo Luật vệ sinh thực phẩm, mất nhiều thời gian. Do vậy,
ngoài việc phải chuẩn bị các giấy tờ chứng minh qui trình sản xuất, kiểm tra vệ sinh theo quy
định, nên gửi mẫu trước để Cơ quan kiểm dịch của Nhật Bản có sự hiểu biết trước về lô hàng,
đồng thời sẽ có những hướng dẫn trước những thủ tục, giấy tờ cần bổ sung , sửa đổi. Làm như
vậy DN Việt Nam sẽ tiết kiệm được thời gian. Và phí lưu kho bãi…

Ngoài những biện pháp nói trên, Nhật Bản còn có khá nhiều các Bộ Luật với mục đích bảo vệ
người tiêu dùng, phục vụ cho công tác quản lý thị trường như Luật về nhãn mác, đóng gói; Tiêu
chuẩn hàng công nghiệp… Người tiêu dùng Nhật Bản rất khó tính trong tiêu dùng, đòi hỏi và ý
thức rất cao về cải tiến chất lượng.
Ở Nhật Bản luôn khuyến khích người tiêu dùng phàn nàn về chất lượng hàng hoá đối với nhà
sản xuất, trên cơ sở đó buộc nhà sản xuất phải làm hoàn thiện hơn sản phẩm của mình. Vì vậy
hàng tiêu dùng luon đòi hỏi phải có chất lượng, vệ sinh tốt. Những tiêu chuẩn cao về chất lượng
và vệ sinh như vậy sẽ bảo vệ rất tốt cho ngyươì tiêu dùng trong nước cũng như đồng thời làm
cản trở nhất định đến sản phẩm nhập khẩu, đặc biệt nhập khẩu từ những nưóc mà nền sản xuất
có trình độ chưa cao trong đó có Việt Nam

Hoa kỳ:
Thuế nhập khẩu
Thuế suất
Tất cả hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ đều thuộc 2 loại chịu thuế nhập khẩu hoặc miễn thuế nhập
khẩu trên cơ sở phân loại theo các danh mục hàng hoá trong Lịch trình Thuế Điều hoà - Harmonized
Tariff Schedule của Hoa Kỳ.
Đối với hàng chịu thuế, có 3 loại thuế là:
Thuế suất trên giá trị: Thuế suất trên cơ sở giá trị là loại thuế thường được sử dụng nhiều nhất, là 1
tỉ lệ phần trăm trên giá trị hàng hoá, ví dụ 5% trên giá trị hàng hoá.
Thuế trên số lượng: Thuế trên số lượng là 1 khoản tiền thuế xác định trên đơn vị trọng lượng hoặc
số lượng, ví dụ 5.9 cent trên lố.
Thuế suất phức hợp: Tỉ lệ thuế suất phức hợp là sự kết hợp của 2 loại thuế suất trên giá trị và thuế
trên số lượng, ví dụ 0.7 cent trên kilo cộng 10% trên giá trị.
Hàng miễn thuế và chịu thuế:

Thuế suất của hàng nhập khẩu có thể phụ thuộc vào quốc gia xuất sứ. Trên cơ sở chế độ các quan
hệ thương mại bình thường – nomal trade relations (mà trước đây là tối huệ quốc MFN – most
favour nation) thì đa số các hàng hoá đều thuộc loại chịu thuế và được quy định ở cột 1 phần Cột
Chung trong Lịch trình Thuế Điều hoà. Hành hoá xuất sứ từ các quốc gia không hưởng chế độ các
quan hệ thương mại bình thường sẽ phải chịu mức thuế đầy đủ hoặc mức thuế “theo luật định” được
quy định tại cột 2 của Lịch trình Thuế Điều hoà.

Hàng hoá miễn thuế được ghi chú trong phần đề mục phụ của cột 1 và 2 trong Lịnh trình Thuế Điều
hoà. Trạng thái miễn thuế cũng có nhiều ngoại lệ được quy định trong cột Đặc biệt thuộc cột 1 của
Lịnh trình thuế. Trách nhiệm chứng minh điều kiện được miễn thuế nhập khẩu thuộc về người nhập
khẩu.

Một trong những trường hợp được miễn thuế được chiếu theo hệ thống GSP –Generalized System of
Preferences (GSP). Những hàng hoá này được xác định bằng mã “A” hoặc “A*” trong cột đặc biệt
thuộc cột 1 trong Lịch trình thuế. Hàng hoá được xác định miễn thuế theo hệ thống GSP khi thỏa
mãn các điều kiện sau:
Hàng hoá phải được sản xuất trong 1 nước hưởng lợi. Yêu cầu này được thỏa mãn khi (1)
hàng hoá hoàn toàn được thực hiện, là sản phẩm hoặc sản xuất của một nước hưởng lợi,
hoặc (2) hàng hoá thực chất bị biến đổi thành 1 loại mới hoặc 1 loại khác cho mục đích
thương mại trong 1 quốc gia hưởng lợi.
Hàng hoá phải được nhập khẩu trực tiếp từ quốc gia hưởng lợi đến biên giới hải quan của
Hoa Kỳ.
Chi phí hoặc giá trị của vật liệu sản xuất tại quốc gia đang phát triển hưởng lợi và/hoặc chi
phí trực tiếp cho chế biến biến đổi phải chiếm ít nhất 35% gía trị thẩm định của hàng hoá.
Những loại miễn thuế khác được quy định trong phần đề mục phụ trong Chương 98 trong
Lịch trình thuế. Trong các đề mục phụ này bao gồm các quy định khác một vài trường hợp miễn cho
cá nhân, các trường hợp miễn thuế đối với các loại hàng hoá phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa
học, và các miễn giảm thuế cho các hàng hoá tái nhập khẩu vào Hoa Kỳ.
Hạn ngạch nhập khẩu
Hạn ngạch nhập khẩu là một biện pháp kiểm soát số lượng trên hàng hoá nhập khẩu đối với một
thời kỳ. Hạn ngạch được quy định bởi luật pháp, các hướng dẫn và công bố của các cơ quan có thẩm
quyền. Các hạn ngạch nhập khẩu chính do Cơ quan Hải quan Hoa Kỳ điều hành. Các Cơ quan Ủy
quyền của Hải Quan kiểm soát hạn ngạch nhập khẩu nhưng không có quyền thay đổi hoặc điều
chỉnh hạn ngạch.

Hạn ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ được chia làm 2 loại: loại tuyệt đối và loại tỉ suất thuế. Theo Hiệp
định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) có 3 mức thế ưu đãi được quản lý giống như loại hạn ngạch
tỉ suất thuế.

You might also like