Professional Documents
Culture Documents
3. Tăng thu hút đầu tư và sự chuyển giao kỹ thuật, công nghệ cao từ các nước
Việc tham gia và chấp nhận các luật lệ, quy tắc của WTO, Việt Nam sẽ tạo lập và
củng cố lòng tin của các nước vào cơ chế chính sách của Việt Nam trên cơ sở đó
tạo sự hấp dẫn để các nhà đầu tư nước ngoài an tâm đầu tư vào Việt Nam. Đồng
thời, Việt Nam cũng tăng thêm cơ hội tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi, các hình
thức tín dụng, tài trợ của các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF….
4. Nâng cao vị trí quốc tế của Việt Nam, tạo thế đứng vững chắc hơn cho Việt
Nam trong quan hệ quốc tế
Việt Nam sẽ có cơ hội tham gia các cuộc đàm phán đa phương, giải quyết các nhu
cầu về thị trường vì các quyền lợi chính đáng của mình. Như vậy, Việt Nam có
điều kiện, cơ hội góp tiếng nói vì lợi ích các nước đang phát triển, nắm bắt tốt hơn
các xu thế quốc tế cũng như sự điều chỉnh chính sách kinh tế thương mại của các
nước khác, từ đó xác định được hướng điều chỉnh phù hợp với tiến trình chung và
khai thác triệt để những cơ hội có lợi nhất cho mình.
- Nhật Bản đang tiến hành rất nhiều các hiệp định FTA song phương và đa
(Vinanet-21/11/2005)
phương trong khu vực. Là một trong những thị trường hấp dẫn, nhưng khá khắt khe. Nền kinh tế
Nhật Bản đang tham gia mạnh mẽ vào quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế. Điều này
được thể hiện rất rõ bằng việc Nhật bản liên tục ra đời các Hiệp định kinh tế gắn kết nền kinh tế
các nước, khu vực với nhau.
Chính các Hiệp định này đã ràng buộc các nước dành cho nhau những ưu đãi bình đẳng về
chính sách thương mại, đặc biệt là về thuế quan. Do đó, tự bản thân các nước khi đã tham gia
các Hiệp định đều không tự ý đặt ra các mức thuế nhập khẩu riêng với mục đích làm rào cản
hàng nhập khẩu của các nước tham gia Hiệp định. Vì vậy, thuế nhập khẩu- vốn là biện pháp rào
cản thương mại lâu đời, được sử dụng rộng rãi ngày nay không còn được sử dụng nhiều nữa.
Thay vào đó, các nước ngày càng sử dụng nhiều biện pháp phi thuế quan dưới các hình thức
tinh vi hơn để làm rào cản nhập khẩu những hàng hoá không khuyến khích nhập khẩu.
Các biện pháp rào cản thương mại cụ thể ở Nhật Bản, ngoài biện pháp thuế quan thông thường
được tính theo mức thuế suất còn có biện pháp áp thuế giá trị tuyệt đối và các biện pháp phi thuế
quan, chẳng hạn:
- Thuế nhập khẩu được tính là mức cao hơn của mức tính dựa theo thuế suất và mức giá trị
tuyệt đối. Với cách tính này, hàng hoá có giá thành thấp từ các nước đang phát triển, phí nhân
công rẻ chịu mức thuế cao bằng mức giá trị tuyệt đối.
Như trường hợp giày làm bằng da 100% nhập khẩu vào Nhật sẽ chịu mức thuế là 30% giá CIF
hoặc 4300 yên/đôi, lấy theo mức cao hơn. Trong khi giày da sản xuất tại Việt nam thường có giá
thành thấp, nên 30% giá CIF thường thấp hơn nhiều so với mức 4.300 yên/đôi. Với cách tính
thuế này thì giày da có chất lượng thấp dù có giá thành sản xuất thấp cũng không có cơ hội tiêu
thụ tại thị trường Nhật Bản.
Vì vậy giày da Việt nam, muốn XK sang Nhật Bản cần phải làm loại có chất lượng thật tốt để
người tiêu dùng có thể chấp nhận được với mức giá cao (do thuế nhập khẩu cao). Hoặc là khi
sản xuất giày, riêng phần đế làm giả da thì thuế nhập khẩu sẽ giảm xuống còn 27%. Tuy nhiên,
điều này còn phụ thuộc vào chất lượng, mẫu mã, khả năng tiêu thụ mà nhà sản xuất sẽ phải có
điều chỉnh hợp lý.
- Quy định kiểm tra chặt chẽ, cấp phép nhập khẩu đối với một vài chi tiết cấu thành sản phẩm
hay tính thuế nhập khẩu dựa vào tỉ lệ của một số vật liệu nhất định trong sản phẩm. Chẳng hạn
như sản phẩm sợi có tỉ trọng lượng lông cừu chiếm trừ 85 % trửo lên sẽ chụi mức thuế 2,7%
(nếu dưới 85% mức thuế chỉ có 0%). Cũng giống như vậy đối với các sản phẩm làm từ tơ tằm.
Những nhà sản xuất, XK mặt hàng này cần nắm vững cách tính thuế trên đây để có biện pháp
điều chỉnh tỉ trọng các vật liệu một cách hợp lý.
- Biện pháp đánh thuế leo thang cũng đang được các nước phát triển áp dụng khá phổ biến đối
với hàng nhập khẩu từ các nước đang phát triển. Đặc biệt là Nhật Bản đang áp dụng hình thức
đánh thuế nhập khẩu này với mức chênh lệch rất cao giữa việc nhập nguyên liệu, bán thành
phẩm và thành phẩm. Chẳng hạn như đối với cà phê: thuế nhập khẩu nguyên liệu hạt là 0%;
nhập khẩu sản phẩm cà phê hoà tan là 8% và thành phẩm cà phê có đường lên tới 24%. Tương
trự như vậy đối với sản phẩm da: gia nguyên liệu có thuế nhập khẩu 0- 3,5%, tỏng khi sản phẩm
da từ 7,1- 27%; thuế nhập khẩu nguyên liệu bông là 0%, trong khi đó thuế nhập khẩu áo thành
phẩm làm bằng sợi bông là 10,9%…
-Áp dụng biện pháp tự vệ (Save guard) cho phép theo khuôn khổ WTO. Từ năm 2001- 2004,
Nhật Bản liên tục đưa khăn bông nhập khẩu từ Việt nam và Trung Quốc vào đối tượng điều tra
tốc độ tăng nhập khẩu, đánh giá mức độ ảnh hưởng đến sản xuất trong nước trong từng đợt 6
tháng/lần trước khi đi đến quyết định áp dụng biện pháp tự vệ. Sau quá trình điều tra cùng với
việc liên tục thông báo kết quả điều tra cho nước XK để có biện pháp điều chỉnh, đến tháng
4/2004 Nhật Bản mới chấm dứt quá trình điều tra và không áp dụng biện pháp này nữa. Để tránh
không bị Nhật Bản áp dụng biện pháp này, DN Việt nam cần thường xuyên theo dõi phản ứng
của phía Nhật về việc này để kịp thời có điều chỉnh và vận động Chính phủ Nhật một cách hợp
lý.
- Những năm gần đây, yêu cầu về vệ sinh đối với hàng hoá nhập khẩu ngày càng nâng cao.
Điều này, về mặt nào đó đã làm cản trở đến những sản phẩm nhập khẩu vào Nhật, đặc biệt đối
với những hàng hoá khi sử dụng có tiếp xúc trực tiếp với việc ăn uống của con người. Ví dụ như
phin ca phê, thìa, khay đựng bánh mỳ… Việt nam XK sang Nhật Bản sẽ phải trải qua các bước
kiểm tra an toàn vệ sinh rất chặt chẽ theo Luật vệ sinh thực phẩm, mất nhiều thời gian. Do vậy,
ngoài việc phải chuẩn bị các giấy tờ chứng minh qui trình sản xuất, kiểm tra vệ sinh theo quy
định, nên gửi mẫu trước để Cơ quan kiểm dịch của Nhật Bản có sự hiểu biết trước về lô hàng,
đồng thời sẽ có những hướng dẫn trước những thủ tục, giấy tờ cần bổ sung , sửa đổi. Làm như
vậy DN Việt Nam sẽ tiết kiệm được thời gian. Và phí lưu kho bãi…
Ngoài những biện pháp nói trên, Nhật Bản còn có khá nhiều các Bộ Luật với mục đích bảo vệ
người tiêu dùng, phục vụ cho công tác quản lý thị trường như Luật về nhãn mác, đóng gói; Tiêu
chuẩn hàng công nghiệp… Người tiêu dùng Nhật Bản rất khó tính trong tiêu dùng, đòi hỏi và ý
thức rất cao về cải tiến chất lượng.
Ở Nhật Bản luôn khuyến khích người tiêu dùng phàn nàn về chất lượng hàng hoá đối với nhà
sản xuất, trên cơ sở đó buộc nhà sản xuất phải làm hoàn thiện hơn sản phẩm của mình. Vì vậy
hàng tiêu dùng luon đòi hỏi phải có chất lượng, vệ sinh tốt. Những tiêu chuẩn cao về chất lượng
và vệ sinh như vậy sẽ bảo vệ rất tốt cho ngyươì tiêu dùng trong nước cũng như đồng thời làm
cản trở nhất định đến sản phẩm nhập khẩu, đặc biệt nhập khẩu từ những nưóc mà nền sản xuất
có trình độ chưa cao trong đó có Việt Nam
Hoa kỳ:
Thuế nhập khẩu
Thuế suất
Tất cả hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ đều thuộc 2 loại chịu thuế nhập khẩu hoặc miễn thuế nhập
khẩu trên cơ sở phân loại theo các danh mục hàng hoá trong Lịch trình Thuế Điều hoà - Harmonized
Tariff Schedule của Hoa Kỳ.
Đối với hàng chịu thuế, có 3 loại thuế là:
Thuế suất trên giá trị: Thuế suất trên cơ sở giá trị là loại thuế thường được sử dụng nhiều nhất, là 1
tỉ lệ phần trăm trên giá trị hàng hoá, ví dụ 5% trên giá trị hàng hoá.
Thuế trên số lượng: Thuế trên số lượng là 1 khoản tiền thuế xác định trên đơn vị trọng lượng hoặc
số lượng, ví dụ 5.9 cent trên lố.
Thuế suất phức hợp: Tỉ lệ thuế suất phức hợp là sự kết hợp của 2 loại thuế suất trên giá trị và thuế
trên số lượng, ví dụ 0.7 cent trên kilo cộng 10% trên giá trị.
Hàng miễn thuế và chịu thuế:
Thuế suất của hàng nhập khẩu có thể phụ thuộc vào quốc gia xuất sứ. Trên cơ sở chế độ các quan
hệ thương mại bình thường – nomal trade relations (mà trước đây là tối huệ quốc MFN – most
favour nation) thì đa số các hàng hoá đều thuộc loại chịu thuế và được quy định ở cột 1 phần Cột
Chung trong Lịch trình Thuế Điều hoà. Hành hoá xuất sứ từ các quốc gia không hưởng chế độ các
quan hệ thương mại bình thường sẽ phải chịu mức thuế đầy đủ hoặc mức thuế “theo luật định” được
quy định tại cột 2 của Lịch trình Thuế Điều hoà.
Hàng hoá miễn thuế được ghi chú trong phần đề mục phụ của cột 1 và 2 trong Lịnh trình Thuế Điều
hoà. Trạng thái miễn thuế cũng có nhiều ngoại lệ được quy định trong cột Đặc biệt thuộc cột 1 của
Lịnh trình thuế. Trách nhiệm chứng minh điều kiện được miễn thuế nhập khẩu thuộc về người nhập
khẩu.
Một trong những trường hợp được miễn thuế được chiếu theo hệ thống GSP –Generalized System of
Preferences (GSP). Những hàng hoá này được xác định bằng mã “A” hoặc “A*” trong cột đặc biệt
thuộc cột 1 trong Lịch trình thuế. Hàng hoá được xác định miễn thuế theo hệ thống GSP khi thỏa
mãn các điều kiện sau:
Hàng hoá phải được sản xuất trong 1 nước hưởng lợi. Yêu cầu này được thỏa mãn khi (1)
hàng hoá hoàn toàn được thực hiện, là sản phẩm hoặc sản xuất của một nước hưởng lợi,
hoặc (2) hàng hoá thực chất bị biến đổi thành 1 loại mới hoặc 1 loại khác cho mục đích
thương mại trong 1 quốc gia hưởng lợi.
Hàng hoá phải được nhập khẩu trực tiếp từ quốc gia hưởng lợi đến biên giới hải quan của
Hoa Kỳ.
Chi phí hoặc giá trị của vật liệu sản xuất tại quốc gia đang phát triển hưởng lợi và/hoặc chi
phí trực tiếp cho chế biến biến đổi phải chiếm ít nhất 35% gía trị thẩm định của hàng hoá.
Những loại miễn thuế khác được quy định trong phần đề mục phụ trong Chương 98 trong
Lịch trình thuế. Trong các đề mục phụ này bao gồm các quy định khác một vài trường hợp miễn cho
cá nhân, các trường hợp miễn thuế đối với các loại hàng hoá phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa
học, và các miễn giảm thuế cho các hàng hoá tái nhập khẩu vào Hoa Kỳ.
Hạn ngạch nhập khẩu
Hạn ngạch nhập khẩu là một biện pháp kiểm soát số lượng trên hàng hoá nhập khẩu đối với một
thời kỳ. Hạn ngạch được quy định bởi luật pháp, các hướng dẫn và công bố của các cơ quan có thẩm
quyền. Các hạn ngạch nhập khẩu chính do Cơ quan Hải quan Hoa Kỳ điều hành. Các Cơ quan Ủy
quyền của Hải Quan kiểm soát hạn ngạch nhập khẩu nhưng không có quyền thay đổi hoặc điều
chỉnh hạn ngạch.
Hạn ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ được chia làm 2 loại: loại tuyệt đối và loại tỉ suất thuế. Theo Hiệp
định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) có 3 mức thế ưu đãi được quản lý giống như loại hạn ngạch
tỉ suất thuế.