You are on page 1of 3

Mấy đánh giá về năm 1972

Cuộc kháng chiến 21 năm có thể chia ra nhiều bước phát triển, trong
đó giai đoạn 1969-1972 là giai đoạn có tính chất bản lề. Cuộc chiến trong
giai đoạn này đầy những bất ngờ. Năm 1972 là năm “đảo ngược thế cờ”,
năm bản lề của giai đoạn bản lề. Sau những cố gắng giành lại thế trận và xây
dựng, củng cố, tích luỹ lực lượng, đến năm 1972 ta đã chớp lấy thời cơ liên
tục tiến công, liên tiếp giành thắng lợi trên các mặt trận, cuối cùng đánh gục
ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, giành thắng lợi quyết định cho cuộc kháng
chiến. Năm 1972 là năm chín muồi của quá trình phát triển của cả giai đoạn
1969-1972. Có thể nêu lên những vấn đề chính:
1. Thành công lớn của ta năm 1972 là việc nắm bắt tình hình, sử dụng
thời cơ đã đạt trình độ nghệ thuật cao. Mỹ không bất ngờ như năm 1968 khi
biết ta sẽ lợi dụng thời điểm chính trị năm 1972, nhưng chúng hoàn toàn bị
động với những diễn biến của chiến tranh mà ta tạo ra trong năm này, hoặc
không lường hết được hậu quả của những bước phiêu lưu của chúng khi theo
đuổi chiến tranh. Chính sách ngoại giao nước lớn của Mỹ tuy có thành công
bước đầu trong quan hệ với Trung Quốc, Liên Xô, nhưng sức chi phối của
nó đến các nước nhỏ là rất ít. Vì thế Mỹ không thể buộc đối phương rơi vào
tình thế hoàn toàn bị động trong chiến tranh. Ngược lại ta tận dụng được
những điều kiện khách quan còn thuận lợi để kiên trì theo đuổi đường lối
độc lập tự chủ từ đầu đến cuối. Thời điểm năm 1972 đối với ta có “éo le” và
ngặt nghèo, nhưng không còn ở đỉnh cao của những khó khăn phức tạp như
3 năm 1969-1971. Trong khi thời điểm này đối với nước Mỹ rất nhạy cảm
chính trị và ta đã khai thác thành công tình hình chính trị trong ngoài nước,
Mỹ phục vụ cho ý đồ chiến tranh cách mạng của mình.
2.Từ năm 1969 địch tiến hành Việt Nam hoá chiến tranh khi chúng đã
tạm thời giành được một số kết quả trong biện pháp bình định ở miền Nam,
năm 1970 mở rộng chiến tranh sang Campuchia, đẩy mạnh chiến tranh đặc
biệt ở Lào. Chúng muốn củng cố kết quả ấy và đẩy mạnh hơn nữa Việt Nam
hoá chiến tranh, tạo cho nguỵ Sài Gòn thêm những “đồng minh” và thử
thách chúng ở các chiến trường 3 nước Đông Dương. Nhưng điều ấy cũng
có nghĩa là từng bước chúng đẩy nhân dân các nước Đông Dương vào cùng
một hoàn cảnh, về cùng một phía trong trận tuyến chính trị ở đây, sự phát
triển mới của liên minh đặc biệt Việt Nam-Lào-Campuchia là bước phát
triển tất yếu khi Mỹ trở thành kẻ thù chung. Như vậy, trận tuyến chống Mỹ ở
miền Nam cũng như trên cả 3 nước Đông Dương, đến năm 1972 cùng có
thêm những vận hội mới để cùng phát triển.
3.Những năm 1969-1971 ta đã có nhiều cố gắng nỗ lực vượt ra khỏi
những khó khăn phức tạp của tình hình, từng bước giành thắng lợi, xây dựng
củng cố thế và lực. Nhờ vậy đến xuân hè 1972, ta đã đủ sức mở cuộc tiến
công chiến lược đánh vào các căn cứ sào huyệt địch, khi chúng đã có nhiều
kinh nghiệm trong phản công và phòng thủ, nhưng chúng lại rất chủ quan
với thắng lợi tạm thời của chúng và tình hình còn nhiều khó khăn của ta.
Quả đấm chiến lược của quân giải phóng miền Nam trên 3 chiến trường lựa
chọn ấy, vừa phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch và tạo lại áp lực
đối với các chiến trường vòng trong, vừa tạo ra thế mới cho các hoạt động
đấu tranh khác trên chiến trường miền Nam, trực tiếp là trận tuyến chống
phá bình định đã nhanh chóng vượt qua bước một, chuyển sang bước hai.
4. Những năm 1969-1971 ta cũng đã có sự phối hợp chặt chẽ giữa đấu
tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, chỉ trên cơ sở đó đến năm 1972, sự phối
hợp này mới đạt đến đỉnh cao, khi nắm bắt lấy thời điểm chính trị của nước
Mỹ trước cuộc bầu cử tổng thống. Đó là thời điểm mà nước Mỹ không thể
đủ kiên trì với bất kỳ một sự ngoan cố nào. Giải pháp chính trị cho cuộc
chiến tranh Việt Nam, thôi thúc các giới hiếu chiến Mỹ phải nhanh chóng có
những quyết định. Những đòn tấn công quân sự, chính trị, ngoại giao của ta
trong năm 1972 cuối cùng đã đánh gục ý chí xâm lược của Mỹ. Sự chuyển
biến nhanh của tình hình thuận lợi ấy của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, khác hẳn với những khó khăn tưởng như không vượt qua nổi những
năm 1969-1970. Trên trận tuyến chống phá bình định, dù còn nhiều khó
khăn phức tạp đòi hỏi phải có nỗ lực lớn, song từ cuối năm 1971 sang đầu
năm 1972 ta đã vượt ra khỏi thời kỳ khó khăn nhất để trỗi dậy theo phương
thức mới. Có thể nói trên lĩnh vực này, ta đã có nhiều cố gắng, kiên trì để
nắm bắt tình hình, nhận thức rõ hơn sai lầm, khuyết điểm của mình, vì thế ta
hoàn toàn có khả năng đưa trận tuyến chống phá bình định lên bước phát
triển mới, đáp ứng được yêu cầu của cuộc kháng chiến trong thời điểm quyết
định năm 1972.
Những vấn đề trên đây đan xen vào nhau, tạo ra những kết quả tác
động ảnh hưởng lẫn nhau. Chính sự tác động lẫn nhau ấy đã làm cho năm
1972 có tính chất đặc thù và những thắng lợi của năm 1972 có ý nghĩa chiến
lược đánh bại âm mưu thủ đoạn của Mỹ, kết thúc chiến tranh.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ có nhiều mốc lịch sử đánh dấu những
bước phát triển tuần tự xen kẽ với những bước phát triển nhảy vọt. Năm
1972 là kết quả phát triển của giai đoạn 1969-1972, giai đoạn của những thử
thách lớn và mở ra giai đoạn cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
còn phải giải quyết nhiều vấn đề không ít khó khăn. Song một khi đã “đánh
cho Mỹ cút”, mà năm 1972 có góp phần trực tiếp quyết định, thì việc “đánh
cho nguỵ nhào” cũng không còn là một bài toán khó nữa.

Ý nghĩa :
Ý nghĩa của cuộc tiến công năm 1972 cũng hết sức to lớn:

Đã mở ra bước ngoặt của cuộc kháng chién chống Mỹ, giáng 1 đón mạnh
mẽ vào quân ngụy ( công cụ chủ yếu ) và quốc sách "bình định"(xương
sống) của chiến lược "Việt Nam hóa" chiến tranh buộc Mỹ phải tuyên bố
" Mỹ hóa" trở lại chiến tranh xâm lược ( tức thừa nhạn thất bại của chiến
lược "Việt Nam hóa " chiến tranh)

Thắng lợi trên lĩnh vực quân sự đã hổ trợ và thúc đẩy mạnh mẽ các cuộc
đấu tranh trên mặt trận chống bình định của địch và phong trào đấu tranh
chính trị ở cả nông thôn và thành thị . Phối hợp chiến đấu với cuộc chiến
đấu của nhân dân miền Nam , nhân dân miền Bắc vừa sản xuất vừa chiến
đấu chống cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của Mỹ và giành được
thắng lợi . Chúng ta đã bắn rơi gần 70 máy bay các loại , loại khỏi vòng
chiến đấu hàng chục giặc lái . Đỉnh cao của thắng lợi này là trận Điện
Biên Phủ trên không . Ta đã đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy
bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng của Mỹ trong 12 ngày đêm cuối năm
1972 (từ ngày 18 đến ngày 29/12 ) thắng lợi này đã đập tan ý đồ của Mỹ .

Thắng lợi của ta trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972 ở miền Nam
và trong trận ĐBP trên không ở miền bắc đã buộc Mỹ phải chấm dứt vĩnh
viễn chiến tranh phá hoại ở miền bắc từ ngày 15/1/1973, Mỹ phải kí hiệp
định Paris ngày 27/1/1973 về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt
Nam ,với những điều khoản có lợi cho ta . Mỹ buộc phải rút quân đội về
nước ,công nhận độc lập chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của
Việt Nam.

Cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ thành cổ Quảng Trị mùa hè đỏ lửa
năm 1972, cuộc chiến đấu kiên cường 12 ngày đêm đập tan cuộc tập kích
chiến lược vào Hà Nội – Hải Phòng bằng máy bay B.52 của không quân
Mỹ là biểu tượng và bài ca bất tử về sức mạnh con người và ý chí Việt
Nam, buộc đế quốc Mỹ dù nhiều lần tráo trở đã phải ký Hiệp định Pari,
tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc
Việt Nam, rút hết quân chiến đấu Mỹ và quân các nước phụ thuộc Mỹ ra
khỏi lãnh thổ Việt Nam. Nhiệm vụ “đánh cho Mỹ cút” đã hoàn thành. Sự
sụp đổ của quân đội và chính quyền Sài Gòn – tức “ngụy nhào” chỉ còn
là vấn đề thời gian.

You might also like