You are on page 1of 11

Antonio Vivaldi

Bách khoa toàn th ư mở Wikipedia

Antonio Lucio Vivaldi (tiếng Ý: [anˈtɔːnjo ˈluːtʃo viˈvaldi]; 4 tháng 3


năm 1678 – 28 tháng 7 năm 1741) là một nhà soạn nhạc người Ý thời
kỳ Baroque, nghệ sĩ vĩ cầm bậc thầy, giảng viên âm nhạc đồng thời
là một linh mục. Sinh ở Venice, ông được đánh giá là một trong
những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất thời kỳ Baroque, trong suốt cuộc
đời ông, sức ảnh hưởng của ông lan rộng trên khắp châu Âu. Ông
thường được biết đến với các concerto viết cho nhiều nhạc cụ, cho
violon và nhiều nhạc cụ khác, cũng như các bản hợp xướng cho nhà
thờ và hơn bốn mươi vở opera. Ông nổi tiếng với bộ concerto cho vĩ
cầm mang tên Bốn mùa (Le quattro stagioni).

Nhiều tác phẩm của ông được viết cho hợp xướng nữ tại Ospedale
della Pietà, một nhà tình thương nơi Vivaldi ở trong khoảng thời gian
năm 1703-1715 và 1723-1740 khi ông được thụ phong là linh mục
Công giáo. Ông cũng có một số thành tựu khi dựng các vở opera lớn ở
Venice, Mantua và Viên. Sau cuộc gặp gỡ với Hoàng đế Charles VI, Аntoniо Vivaldi (tranh khắc gỗ của
Vivaldi chuyển đến Viên với hy vọng được thăng tiến. Tuy nhiên, vị François Morellon de La Cave, trích ừ
t
hoàng đế này mất sau khi Vivaldi chuyển đến một thời gian ngắn và phiên bản của Vivaldi's Op. 8 của
chính Vivaldi cũng mất chưa đầy một năm sau đó trong cảnh bần Michel-Charles Le Cène)
cùng.

Sau cái chết của ông, âm nhạc của ông đã đi vào quên lãng cho đến
khi được hồi sinh mạnh mẽ vào thế kỷ 20. Ngày nay, ông được xếp
vào một trong những nhà soạn nhạc baroque nổi tiếng nhất và được
nhiều người thu âm nhất, chỉ đứng sau Johann Sebastian Bach[1], Chữ ký của Vivaldi.
người cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của Vivaldi.

Mục lục
1 Cuộc đời
1.1 Thời thơ ấu
1.2 Tại nhà tình thương Ospedale della Pietà
1.3 Giám đốc nghệ thuật cho các vở opera
1.4 Thành phố Mantua và bộ concerto Bốn Mùa
1.5 Giai đoạn cuối đời và cái chết
2 Phong cách và sức ảnh hưởng
3 Danh tiếng sau khi qua đời
4 Tác phẩm
5 Các danh mục tác phẩm của Vivaldi
6 Trong văn hóa đại chúng
7 Trích đoạn nhạc
8 Tham khảo
9 Sách tham khảo
10 Liên kết ngoài

Cuộc đời

Thời thơ ấu
Thời thơ ấu

Antonio Lucio Vivaldi sinh năm 1678 tại Venice[2], dưới thời Cộng
Hòa Venice. Ông được bà đỡ rửa tội tại nhà ngay sau khi ra đời, do
vậy mọi người tin rằng cuộc đời của ông sẽ bị đe dọa theo một cách
nào đó. Không chắc chắn lắm, nhưng việc một đứa trẻ được rửa tội
ngay lập tức sau khi sinh chỉ xảy ra vì một trong hai lý do: sức khỏe
yếu hoặc do ngày đứa trẻ sinh ra thì thành phố có động đất. Có thể vì
lý do đó mà mẹ của Vivaldi đã hiến cuộc sống của đứa con mình cho
tôn giáo thông qua việc làm linh mục.[3] Lễ rửa tội chính thức tại nhà
thờ của Vivaldi diễn ra hai tháng sau đó.[4]
Nhà thờ nơi Vivaldi được rửa tội: San
Theo thông tin trong sổ đăng ký của San Giovanni tại Bragora, bố mẹ Giovanni Battista ở Bragora, Sestiere di
của Vivaldi là ông Giovanni Battista Vivaldi và bà Camilla Castello, Venice
[5]
Calicchio . Vivaldi có năm anh chị em ruột: Margarita Gabriela,
Cecilia Maria, Bonaventura Tomaso, Zanetta Anna và Francesco
Gaetano.[6] Giovanni Battista là thợ cắt tóc trước khi trở thành một nghệ sĩ violin chuyên nghiệp. Ông dạy
Vivaldi chơi violin và tổ chức lưu diễn violin cùng với con trai. Vivaldi có nền tảng vững chắc ngay từ khi
rất nhỏ, điều đó được đánh giá qua kiến thức âm nhạc phong phú mà ông tích lũy được ở tuổi 24 khi ông
bắt đầu làm việc tại Ospedale della Pietà.[7] Giovanni Battista là một trong những người thành lập Sovvegno
dei musicisti di Santa Cecilia, một tổ chức dành cho các nhạc sĩ.[8]

Người điều hành của Sovvegno là Giovanni Legrenzi, một nhà soạn nhạc thời kỳ Baroque giai đoạn đầu và
là nhạc trưởng tại St Mark's Basilica. Rất có thể Legrenzi là người dạy Vivaldi những bài học đầu tiên về
sáng tác. Nhà bác học người Luxembourg Walter Kolneder nhận thấy một cách rõ ràng sự ảnh hưởng từ
phong cách của Lengrenzi trong tác phẩm Tế lễ Laetatus sum của Vivaldi (RV Anh 31) trong giai đoạn đầu,
viết vào năm 1691 khi ông mới 13 tuổi. Bố Vivaldi có lẽ cũng có các tác phẩm của riêng ông: Năm 1689,
một vở opera mang tên La Fedeltà fortunata được Giovanni Battista Rossi sáng tác – tên của bố Vivaldi khi
gia nhập Sovvegno di Santa Cecilia.[9]

Sức khỏe của Vivaldi không ổn định, Bênh của ông, strettezza di petto (tức ngực), được xếp vào một trong
những triệu chứng của bệnh hen suyễn. Điều này không cản trở việc tập luyện violin của ông, kể cả sáng
tác hay tham gia các hoạt động âm nhạc, nhưng nó khiến ông phải dừng việc chơi các nhạc cụ hơi. Năm
1693, ở tuổi mười lăm, ông bắt đầu học để trở thành một linh mục. Ông được thụ phong linh mục vào năm
1703 ở tuổi 25, và ngay sau đó được đặt biệt danh là il Prete Rosso, "Linh mục đỏ".[10] (Rosso tiếng Ý nghĩa
là đỏ, và có thể vì màu tóc đỏ được di truyền của ông.)

Không lâu sau khi được thụ phong, từ năm 1704 ông được miễn khỏi việc tham gia thánh lễ vì lý do sức
khỏe. Vivaldi chỉ làm thánh lễ với tư cách linh mục một vài lần và sau đó được miễn hầu hết những mục
vụ, mặc dù ông vẫn là một linh mục.

Tại nhà tình thương Ospedale della Pietà

Tháng 9 năm 1703, Vivaldi trở thành một maestro di violino (thầy dạy vĩ cầm) tại một nhà tình thương tên là
Ospedale della Pietà (Devout Hospital of Mercy) tại Venice.[2] Khi đó Vivaldi là một nhà soạn nhạc rất nổi
tiếng, ông cũng được biết đến với kỹ thuật vĩ cầm vô cùng điêu luyện. Một kiến trúc sư người Đức Johann
Friedrich Armand von Uffenbach nhắc đến Vivaldi như là một "nhà soạn nhạc và là nghệ sĩ vĩ cầm nổi
tiếng" và "Vivaldi chơi độc tấu bè đệm rất xuất sắc, và ở đoạn kết, ông ta thêm vào một đoạn ngẫu hứng
[một đoạn ứng tác] nó hoàn toàn làm tôi sững sờ, vì nó rất khó đối với kể cả những ai đã luyện tập qua, hay
chơi tại chỗ, nhưng lại được chơi ngay một cách ngẫu hứng như vậy."[11]

Vivaldi chỉ mới 25 tuổi khi ông bắt đầu làm việc tại Ospedale della Pietà. Hơn ba mươi năm sau đó, những
sáng tác của ông phần lớn đều được ra đời trong quá trình làm việc ở đây.[12] Có bốn tổ chức tương tự như
vậy tại Venice; mục đích của chúng là nuôi dưỡng và giáo dục những đứa trẻ bị bỏ rơi hoặc mồ côi, hoặc
những đứa trẻ mà gia đình không có điều kiện để nuôi
nấng. Nguồn tài chính của các tổ chức này lấy từ các quỹ
của nền Cộng Hòa.[13] Các bé trai được học nghề và
phải rời đi khi đến tuổi 15. Các bé gái được dạy nhạc, và
các bé gái tài năng nhất được giữ lại và trở thành thành
viên của dàn nhạc và dàn hợp xướng nổi tiếng của
Ospedale.

Một thời gian ngắn sau khi Vivaldi được bổ nhiệm,


những đứa trẻ mồ côi cũng bắt đầu nhận được sự đánh
giá cao và quý trọng ở nước ngoài. Vivaldi viết những
bản concerto, cantata và nhạc lễ cho họ.[14] Những tác
phẩm nhạc lễ này có số lượng lên đến hơn 60 bản gồm
nhiều thể loại khác nhau: Thánh ca ngắn độc tấu và tác
phẩm thánh ca lớn cho nghệ sĩ độc tấu, thánh ca song ca,
và dàn nhạc.[15] Năm 1704, ngoài công việc dạy đàn
violon, công việc dạy đàn lyra viol đã được giao thêm cho
Vivaldi.[16] Vivaldi đã phải đảm nhiệm vị trí của người
chỉ huy dàn hợp xướng, và công việc này đã chiếm nhiều
thời gian và công sức của ông. Ông phải sáng tác một bản
Tranh vẽ Ospedale della Pietà. thánh ca hoặc concerto cho mỗi buổi yến tiệc và dạy
những đứa trẻ mồ côi cả phần nhạc lý lẫn thực hành
chơi nhạc cụ.[17]

Mối quan hệ của ông với hội đồng quản trị Osperdale không được tốt đẹp. Hội đồng bỏ phiếu mỗi năm về
việc quyết định giữ hay bỏ một giáo viên. Phiếu bầu cho Vivaldi ít khi được hoàn toàn nhất trí, và tăng tới
tỷ lệ 7-6 chống lại ông vào năm 1709.[18] Sau một năm làm nhạc sĩ tự do, năm 1711 Vivaldi được gọi lại
làm việc với sự nhất trí hoàn toàn của hội đồng quản trị; rõ ràng sau một năm vắng mặt ban lãnh đạo đã
nhận ra sự quan trọng của ông.[18] Ông phải chịu trách nhiệm cho toàn bộ các hoạt động âm nhạc của tổ
chức[19] khi được cất nhắc lên vị trí maestro de concerti (giám đốc dàn hợp xướng) vào năm 1716.[20]

Năm 1705, tuyển tập các tác phẩm đầu tiên (Connor Cassara) của ông được Giuseppe Sala xuất bản[21], bao
gồm: Tập (opus) 1 là tuyển tập 12 sonata cho hai vĩ cầm và basso continuo, theo phong cách truyền
thống.[16] Năm 1709, tuyển tập thứ hai (opus 2) với 12 sonata cho vĩ cầm và basso continuo.[22] So với tuyển
tập đầu tiên, Vivaldi đã có một bước đột phá thật sự với 12 tác phẩm concerto cho vĩ cầm độc tấu, song tấu
và tứ tấu và dàn dây, L'estro armonico (opus 3), được Estience Roger phát hành tại Amsterdam năm 1711[23]
với lời đề tặng đại hoàng tử Ferdinand của Tuscany. Hoàng tử này bảo trợ cho nhiều nhạc sĩ bao gồm cả
Alessandro Scarlatti và George Frideric Handel. Bản thân hoàng tử cũng là một nhạc sĩ, và Vivaldi có lẽ đã
được gặp mặt ông tại Venice.[24] L'estro armonico trở thành một thành công vang dội khắp châu Âu. La
stravaganza tập (opus) 4 đã nối tiếp nó vào năm 1714, đây là một tuyển tập concerto cho vĩ cầm độc tấu với
dàn dây,[25] đề tặng cho một học trò vĩ cầm cũ của Vivaldi, một quý tộc thành Vienna – Vettor Dolfin.[26]

Tháng 2 năm 1711, Vivaldi và bố đến Brescia, tại đó bản phổ của ông cho Stabat Mater (RV 621) được trình
diễn như một phần của buổi lễ thánh. Tác phẩm này dường như được viết trong thời gian khá gấp rút:
phần dành cho dàn dây viết đơn giản, phần nhạc của ba chương đầu được lặp lại ba lần sau đó, và lời hát
không được viết một cách tron vẹn. Tuy nhiên, đó có thể một phần do sự ép buộc thời gian đó của tác
phẩm, tác phẩm này đã trở thành một trong những thành tựu lớn đầu tiên của ông.

Bất chấp những chuyến đi xa liên tục của ông kể từ năm 1718, nhà tình thương (The Pietà) tại Venice vẫn
trả cho ông hai sequin cho hai bản concerto ông viết cho dàn nhạc mỗi tháng và ít nhất năm buổi ông tập
dượt cho dàn nhạc khi ông ở Venice. Theo những ghi chép của The Pietà, họ đã trả cho ông để viết 140
concerto trong khoảng thời gian từ năm 1723 đến 1733.

Giám đốc nghệ thuật cho các vở opera


Vào khoảng đầu thế kỷ 18, các buổi trình diễn opera là
hình thức giải trí âm nhạc phổ biến nhất tại Venice. Điều
đó đã đem lại rất nhiều tiền bạc cho Vivaldi do một loạt
nhà hát đã tranh giành sự chú ý của công chúng. Vivaldi
bắt đầu việc viết opera như một nghề tay trái của ông:
Vở opera đầu tiên, Ottone in villa (RV 729) không được
trình diễn ở Venice mà là ở nhà hát Garzerie tại Vicenza
năm 1713.[28] Năm tiếp theo, Vivaldi trở thành impresario
(giám đốc nghệ thuật) của Teatro San Angelo tại Venice,
nơi vở opera của ông Orlando finto pazzo (RV 727) được
trình diễn. Tác phẩm này không bắt được thị hiếu của
công chúng: tên tuổi của nó bị chìm xuống chỉ sau vài Bảng tưởng niệm Vivaldi cạnh Ospedale della Pietà.
tuần và bị thay thế bằng buổi trình diễn lại của một tác
phẩm ra đời năm trước đó.[24]

Năm 1715, tác phẩm Nerone fatto Cesare (Rv 724, hiện tại đã bị thất lạc) của
ông được ra mắt, với giai điệu được bảy nhạc sĩ khác nhau viết dưới sự chỉ
đạo của ông. Vở opera nay gồm mười một aria, nó là một tác phẩm khá
thành công. Trong khoảng thời gian cuối năm đó, Vivaldi lên kế hoạch cho
một vở opera hoàn toàn do ông viết, Arsilda, regina di Ponto (RV 700), nhưng
bị nhà nước cấm công diễn. Nhân vật chính trong vở opera, Arsilda, yêu một
người phụ nữ tên Lisea, là một người phụ nữ giả trang đàn ông.[24] Vivaldi
được cho phép trình diễn vở opera này trong những năm tiếp theo, và tác
phẩm này đã trở thành một thành công vang dội.

Trong thời gian này, Hội tình thương Pietà được giao cho phụ trách công tác
chuẩn bị cho một số buổi lễ thánh quan trọng. Quan trọng nhất là hai otatorio
(một thể loại âm nhạc dùng trong thánh lễ). Otatorio đầu tiên của Vivaldi,
Moyses Deus Pharaonis, (RV 643) đã bị thất lạc. Otatorio thứ hai, Juditha
triumphans (RV 644) dùng để kỷ niệm chiến thắng của Cộng hòa Venice Bản đầu của Juditha
trong việc chống lại quân Thổ Nhĩ Kỳ và tái chiếm đảo Corfu. Được viết triumphans[27]
năm 1716, đây là một trong những tác phẩm thành công nhất của ông. Tất cả
mười một đoạn aria đều được những cô gái của Pietà trình diễn, kể cả
những đoạn dành cho giọng nam. Nhiều aria có chứa phần trình diễn độc tấu của nhạc cụ - sáo (recorder),
kèn oboe, violas d'amore (một dạng vĩ cầm), và mandolin - đã thể hiện tài năng của các cô gái.[29]

Cũng trong năm 1716, Vivaldi cho ra hai vở opera nữa, L'incoronazione di Dario (RV 719) và La costanza
trionfante degli amori e degli odi (RV 706). Opera thứ hai La costanza trionfante degli amori e degli odi (RV
706) nổi tiếng đến nỗi sau hai năm trình diễn, vở opera này được chỉnh sửa và đặt tên lại thành Artabano re
dei Parti (RV 701, hiện tại đã thất lạc). Nó cũng được trình diễn tai Praha năm 1732. Trong nhiều năm tiếp
theo, Vivaldi viết một số vở opera khác và chúng được trình diễn trên khắp nước Ý.

Sự đổi mới của ông trong thể loại opera đã vấp phải sự phản đối của một số nhạc sĩ bảo thủ cùng thời
như Benedetto Marcell, một chánh án và một nhạc sĩ không chuyên – ông ta từng viết một pamphlet (bài
luận ngắn từ 10 – 20 trang) phản đối Vivaldi và các tác phẩm opera của ông. Pamphlet II teatro all moda đã
công kích Vivaldi nhưng không trực tiếp đề cập đến tên ông. Trên bìa cuốn pamphlet vẽ một chiếc thuyền
(Sant’Angelo), bên lề trái họa hình một thiên thần đội mũ linh mục chơi vĩ cầm. Gia đình Marcello đòi tiền
bản quyền của Teatro Sant’Angelo, và cuộc chiến pháp lý đã kéo dài để đòi tiền từ Hội tình thương, nhưng
không thành công. Phần chữ khó hiểu được viết bên dưới bức vẽ không đề cập đến bất cứ địa danh nào có
tên ALDIVIVA, một dạng đảo chữ cái của chữ A.Vivaldi.

Trong một lá thư của Vivaldi viết cho người bảo trợ của mình – Marchese Bentivaglio vào năm 1737, ông đề
cập đến "94 vở opera" của ông. Chỉ khoảng 50 vở opera của Vivaldi được tìm thấy, và không có một thông
tin nào khác về các bản opera còn lại. Dù Vivaldi có thể đã nói quá, ở cả hai vai trò một nhà soạn nhạc và
một giám đốc nghệ thuật, việc đạt đến số lượng 94 opera bao gồm cả số opera do ông viết và cả số opera
do ông chịu trách nhiệm tổ chức biểu diễn trong suốt khoảng
thời gian gần 25 năm là hoàn toàn có khả năng.[30] Tuy suốt đời
Vivaldi đã sáng tác rất nhiều vở opera, ông không bao giờ có
được sự nổi bật như các nhà soạn nhạc lớn khác như Alessandro
Scarlatti, Johann Adoplph Hasse, Leonardo Leo, hay Baldassare
Galuppi, điều đó được chứng minh bằng việc ông đã không thể
liên tục viết opera cho bất kỳ một nhà hát nào trong một thời gian
dài.[31]

Những thành công nhất của ông trong thể loại opera là La
costanza trionfante và Farnace với sáu buổi diễn thành công cho
mỗi bản.[31]

Thành phố Mantua và bộ concerto Bốn Mùa

Năm 1717 hay 1718, Vivaldi được


đề cử cho vị trí danh giá - Maestro
di Cappella - nhạc trưởng trong
cung đình của hoàng tử Philip of
Trang đầu của Il teatro alla moda Hesse-Darmstadt, thống đốc
Mantua.[33] Ông chuyển đến đây
trong vòng ba năm và sáng tác một
số vở opera như Tito Manlio (RV 738). Năm 1721 ông đến sống tại Milan,
nơi ông đạo diễn vở kịch đồng quê La Silvia (RV 734, 9 aria còn được ghi
lại). Ông trở lại Milan lần nữa trong năm tiếp theo với bản oratorio
L'adorazione delli tre re magi al bambino Gesù (RV 645, cũng đã thất lạc).
Trong năm 1722 Vivaldi chuyển đến Rome, nơi ông cho ra mắt phong cách
opera mới của mình. Tân giáo hoàng Benedict XIII đã mời Vivaldi đến chơi
Tranh biếm họa Vivaldi của P.
đàn cho mình. Năm 1725, Vivaldi trở lại Venice, và ông sáng tác bốn bản
L. Ghezzi, Rome (1723)[32]
opera trong năm đó.

Trong thời gian này ông viết bộ concerto Bốn mùa, gồm bốn concerto cho vĩ
cầm miêu tả phong cảnh của mỗi mùa. Ba trong số bốn concerto hoàn toàn được viết dựa trên ý tưởng
riêng, trong khi bản concerto đầu tiên "Mùa xuân" lại mượn motif từ một sinfonia trong những cảnh đầu tiên
của một opera cùng thời "II Giustino". Cảm hứng cho bốn concerto này hầu như đều dựa trên cảnh đồng
quê quanh vùng Mantua. Chúng có một sự tuần hoàn trong phần ý tưởng âm nhạc: trong đó Vivaldi miêu tả
dòng chảy của những con suối nhỏ, tiếng chim hót (với những sắc thái khác nhau, của các loài chim khác
nhau), chó sủa, tiếng muỗi vo ve, âm thanh của những người chăn cừu, điệu nhảy của những kẻ say, màn
đêm yên tĩnh, những cuộc đi săn dưới góc nhìn của thợ săn và cả con mồi, cảnh băng giá, trẻ con trượt
tuyết, và những ánh lửa ấm áp của mùa đông. Mỗi concerto có tiền đề là một bài thơ ngắn (sonnet), có thể
do chính Vivaldi viết, miêu tả phong cảnh được dựng lên trong mỗi tác phẩm. Bốn concerto này được xuất
bản như bốn concerto đầu tiên cùng với tám tác phẩm khác trong một bộ 12 tác phẩm, Il cimento
dell'armonia e dell'inventione, Opus 8 được Michel-Charles Le Cène phát hành tại Amsterdam vào năm 1725.

Trong thời gian ở Mantua, Vivaldi làm quen với một nữ ca sĩ trẻ đầy tham vọng Anna Tessieri Girò, cô ta trở
thành học trò của ông, được ông bảo trợ, và là giọng nữ chính hát opera được ông yêu thích nhất.[34] Anna
cùng với người chị cùng cha khác mẹ (hoặc cùng mẹ khác cha) của cô là Paolina trở thành một trong những
người thân cận và đồng hành với ông trong nhiều chuyến đi. Có sự nghi vấn về bản chất của mối quan hệ
của Vivaldi và Giro, nhưng không có bằng chứng nào khác ngoài những bằng chứng thể hiện mối quan hệ
với tư cách là bạn bè và cộng sự giữa họ. Khi mối quan hệ của Vivaldi và Anna Girò bị đặt dấu hỏi, ông đã
phủ định một cách cứng rắn về mọi quan hệ lãng mạn giữa hai người trong một lá thư gửi cho người bảo
trợ của ông (Bentivoglio) vào ngày 16 tháng 11 năm 1737.[35]

Giai đoạn cuối đời và cái chết


Khi ở đỉnh cao của sự nghiệp, Vivaldi nhận tiền sáng tác từ các quý tộc và hoàng gia châu Âu. Bản serenata
(cantata) Gloria e Imeneo (RV 687) là đơn đặt hàng vào năm 1725 của một đại sứ Pháp gửi đến Venice để
kỷ niệm lễ thành hôn của Louis XV. Năm tiếp theo, một bản serenata khác, La Sena festeggiante (RV 694),
cũng viết cho một đại diện chính phủ Pháp, kỷ niệm sinh nhật của các công chúa hoàng gia Pháp, Henriette
và Louise Élisabeth. Bản Opus 9 của Vivaldi đã được đề tặng cho hoàng đế Charles VI. Năm 1728, Vivaldi
tới gặp hoàng đế khi Charles VI đến Trieste để giám sát công trình xây cảng mới. Charles rất ấn tượng với
âm nhạc của ông đến nỗi trong buổi nói chuyện đó của hoàng đế với nhà soạn nhạc, Charles VI đã nói với
Vivaldi thời gian nhiều hơn thời gian Charles VI nói chuyện với bộ trưởng của mình trong suốt hai năm.
Đức vua ban cho Vivaldi danh hiệu Hiệp sĩ, một huy chương vàng và mời ông đến Vienna. Vivaldi tặng
Charles VI một bản chép tay của La Cetra, một bộ concerto gần như hoàn toàn khác với bộ concerto cùng
tên đã được công bố trong tập (opus) 9 trước đó. Có lẽ việc in ấn đã bị trì hoãn, buộc Vivaldi phải tổng hợp
và chép tay lại một bộ các tác phẩm ứng tác để đề tặng cho hoàng đế.

Cùng với cha, Vivaldi đến Viên và Praha năm 1730, nơi vở opera
Farnace (RV 711) của ông được công diễn.[36] Một số vở opera
sau đó của ông được viết cùng với sự cộng tác của hai nhà văn
lớn của Ý thời bấy giờ. L'Olimpiade và Catone in Utica được
Pietro Metastasio, tác gia tiêu biểu của phong trào Aracdian và
thể loại thơ tình tại Vienna, thực hiện. La Griselda được Carlo
Goldoni viết lại nhờ lấy ý tưởng từ một libretto viết trước đó
của Apostolo Zeno.

Cũng như các nhà soạn nhạc cùng thời khác, những năm cuối đời
của Vivaldi gặp khó khăn về tài chính. Những sáng tác của ông
không còn được coi trọng như thời ông còn ở Venice; sự thay đổi
về thị hiếu âm nhạc một cách nhanh chóng khiến các tác phẩm
của ông trở nên lỗi thời. Để mưu sinh, Vivaldi chọn cách bán
những bản viết tay của ông với số lượng lớn ở mức giá thấp để
gom góp tiền bạc để tới Viên.[37] Lý do Vivaldi rời Venice không
được làm sáng tỏ, nhưng có lẽ là sau lần gặp gỡ thành công tốt
Tranh sơn dầu: Vivaldi và cây đàn vĩ cầm.
đẹp của ông với hoàng đế Charles VI, ông hy vọng có được một
chân soạn nhạc cho hoàng gia. Trên đường trở về Vienna, Vivaldi
có lẽ đã dừng lại ở Graz để gặp lại Anna Girò.[38]

Có thể Vivaldi đến Viên để tiếp tục viết opera, đặc biệt khi ông chuyển đến ở gần nhà hát kịch Kärntnertor.
Sau một thời gian ngắn khi ông chuyển đến Viên, Vua Charles VI mất khiến nhà soạn nhạc không còn sự
bảo trợ nào của hoàng gia đồng thời mất đi nguồn thu nhập ổn định. Rất nhanh sau đó, Vivaldi rơi vào cảnh
bần cùng[39][40] và mất trong đêm ngày 27/28 tháng 7 năm 1741, thọ 63 tuổi,[41] do nhiễm trùng nội tạng,
trong căn nhà thuộc quyền sở hữu của một góa phụ của một người làm yên xe tại Viên. Ngày 28 tháng bảy
ông được chôn cất một cách đơn giản tại một nghĩa trang của một bệnh viện công. Lễ tang của Vivaldi tổ
chức tại nhà thờ thánh Stephen, nhưng cậu bé Joseph Haydn không thể làm gì hơn cho buổi tang lễ này khi
không hề có một khúc nhạc nào được trình diễn tại lễ tang.[42] Chi phí cho đám tang của ông cùng với một
lần rung chuông trong lễ tang là 19 gulden 45 kreuzer, khá đắt so với giá một lần rung chuông loại rẻ tiền
nhất.

Ông được chôn cất cạnh nhà thờ Karlskirche, trong khu vực mà hiện tại là một phần của Đại học Kĩ thuật
Viên. Ngôi nhà nơi ông sống khi ở Viên còn lại đã bị phá hủy; Khách sạn Sacher được xây trên phần đất đó.
Bảng tưởng niệm được đặt ở cả hai nơi cũng như "ngôi sao" Vivaldi được đặt tại Viennese Musikmeile và
một tượng đài đặt tại Rooseveltplatz.

Chỉ có ba bản chân dung của Vivaldi được biết và còn tồn tại, một bản chạm khắc gỗ, một bản phác họa
mực và một bức tranh sơn dầu. Bản chạm khắc được Francois Morellon La Cave chạm gỗ năm 1725 thể
hiện Vivaldi cầm một bản nhạc. Bản phác thảo bằng mực được Ghezzi hoàn thành năm 1723 phác thảo
chân dung Vivaldi ở góc nhìn nghiêng. Bản sơn dầu có thể thấy tại Liceo Musicale ở Bologna, cho thấy một
hình ảnh chính xác nhất của Vivaldi với mái tóc đỏ bên dưới bộ tóc giả màu vàng của ông.[43]
Phong cách và sức ảnh hưởng
Trong âm nhạc của Vivaldi có sự đổi mới. Ông đã thay đổi cấu trúc về hình thức và nhịp điệu của concerto
trở nên tươi sáng hơn, và ông tìm thấy sự hài hòa và tương phản từ đổi mới giai điệu và giai điệu chủ đề.
Phần nhiều sáng tác của ông có âm hưởng vui vẻ năng động, có lúc đến độ hào hứng, bồng bột của tuổi
thanh niên.

Các concerto và aria của Vivaldi đã có ảnh hưởng rất sâu sắc đến Johann Sebastian Bach (từ các tác phẩm St
John Passion,St Matthew Passion và các cantata). Bach soạn lại sáu trong số các concerto viết cho nhạc cụ
phím độc tấu của Vivaldi, ba trong số đó cho organ, một cho harpsichord, dàn dây và basso continuo (BWV
1065) của Bach được dựa trên concerto cho bốn violin, hai viola, cello và Basso continuo (RV 580) của
Vivaldi.

Danh tiếng sau khi qua đời


Trong suốt cuộc đời của ông, sự nổi tiếng nhanh chóng của Vivaldi khiến tên tuổi của ông được công nhận
trên nhiều nước, trong đó có nước Pháp, nhưng sau khi ông mất danh tiếng của ông cũng chìm xuống. Sau
thời kì Baroque, những bản concerto từng được trình diễn của Vivaldi ít được biết đến và hầu như không
được chú ý. Kể cả tác phẩm thành công nhất của ông, bộ giao hưởng Bốn Mùa với bản soạn gốc cũng ít
được ai biết đến trong thời gian này, ngoài các nhà sử học và nhạc học.[44]

Ở đầu thế kỷ 20, concerto cung Đô trưởng của Fritz Kreisler, viết dựa trên phong cách của Vivaldi (Kreisler
đã viết theo qui cách cũ của Vivaldi) đã khơi dậy danh tiếng của Vivaldi. Từ đó, nhà nghiên cứu người Pháp
Marc Pincherle bắt đầu nghiên cứu về nghệ thuật âm nhạc của Vivaldi. Nhiều bản viết tay của Vivaldi
được tìm thấy nhờ thư viện trường đại học quốc gia Turin dựa trên sự cung cấp thông tin của các thương
gia người Turin - Roberto Foa và Piplipo Giordano, để tưởng nhớ những người con trai của họ. Việc này
khơi lại sự yêu thích đối với Vivaldi, trong số đó Mario Rinaldi, Alfredo Casella, Ezra Pound, Olga Rudge,
Desmond Chute, Arturo Toscanini, Arnold Schering và Louis Kaufman là những người góp phần cho sự hâm
mộ trở lại của nhạc Vivaldi ở thế kỷ 20.[44]

Năm 1926, tại một tu viện ở Piedmont,những nhà nghiên cứu đã tìm thấy bốn mươi bản in của các tác
phẩm của Vivaldi mà trước đó người ta cho rằng đã thất lạc trong những cuộc chiến của Napoleon. Một số
phần trong các bộ đã được đánh số được tìm thấy trong bộ sưu tập của những người thừa kế của Grand
Duke Durazzo, người đã mua trọn các khu tu viện này vào thế kỷ 18. Các phần được tìm thấy bao gồm 300
concerto, 19 vở opera và hơn 100 tác phẩm dành cho thanh nhạc và nhạc cụ.[45]

Những di sản của Vivaldi được công bố vào thế kỷ 20 hầu hết đều do nỗ lực của Alfredo Casella, người đã
tổ chức Tuần lễ Lịch sử của Vivaldi vào năm 1939. Sự kiện này đã giúp tác phẩm Gloria (RV 589) được tìm
thấy và đưa tác phẩm I’Olimpiade trở lại với công chúng. Kể từ Chiến tranh thế giới thứ II, các tác phẩm
của Vivaldi được biểu diễn thành công ở nhiều nơi. Các buổi trình diễn âm nhạc nhằm trình diễn lại các
tác phẩm lịch sử và việc trình diễn các tác phẩm cổ điển bằng các nhạc cụ cổ nguyên bản đã đưa danh
tiếng của Vivaldi tiếp tục vang xa.

Những tác phẩm được khám phá gần đây của Vivaldi gồm có hai bản thánh thi trong bộ Nisi Dominus (RV
803, chia thành tám chương) và Dixit Dominus (RV 807, chia thành mười một chương). Các tác phẩm này
được một học giả người Úc Janice Stockigt thẩm định vào năm 2003 và được sắp xếp lại vào năm 2005.
Một học giả chuyên nghiên cứu về Vivaldi đã mô tả tác phẩm đánh số RV 807 (Dixit Dominus) như là "Tác
phẩm không thuộc thể loại opera được cho là hoàn hảo nhất được viết bởi ngòi bút của Vivaldi và được
đưa ra trước công chúng kể từ … những năm 1920".[46] Vở opera Argippo (RV 697) bị thất lạc năm 1730 đã
được một nghệ sĩ chơi harpsichord và người chỉ huy dàn nhạc Ondřej Macek tìm thấy vào năm 2006. Tác
phẩm này được chính Macek chỉ huy dàn nhạc Hofmusici trình diễn tại lâu đài Praha ngày 3 tháng 5 năm
2008, buổi diễn đầu tiên của tác phẩm này kể từ năm 1730.

Tác phẩm
Các tác phẩm của Vivaldi được nhận dạng bằng ký hiệu RV có đánh số, nó đề cập đến việc nó được xếp
vào "Ryom-Verzeichnis" hay "Répertoire des oeuvres d'Antonio Vivaldi", một danh mục do nhà âm nhạc học
Peter Ryom đặt ra vào thế kỷ 20.

Le quattro stagioni (Bốn mùa) được sáng tác năm 1723 là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Là một phần của
Il cimento dell'armonia e dell'inventione (Vấn đề giữa sự hài hòa và sáng tạo"), nó tái hiện các trạng thái và
khung cảnh của mỗi mùa trong năm. Tác phẩm này được miêu tả như một ví dụ tiêu biểu của âm nhạc
trước thế kỷ 19.

Vivaldi còn viết hơn 500 concerto khác. Khoảng 350 trong số này cho viết cho nhạc cụ độc tấu và dàn dây,
trong số này có 230 bản cho vĩ cầm. Các tác phẩm còn lại là cho bassoon, cello, oboe, flute, viola d’amore,
recorder, lute, hoặc mandolin. Khoảng bốn mươi concerto viết cho hai nhạc cụ và dàn dây, khoảng ba mươi
cho nhiều nhạc cụ hơn và dàn dây.

Ngoài 46 vở opera, Vivaldi còn sáng tác một số lượng lớn các tác phẩm âm nhạc dành cho thánh lễ. Các tác
phẩm khác bao gồm các sinfonia, khoảng 90 sonata và tác phẩm thính phòng.

Một số sonata cho flute, công bố với tên Il Pastor Fido, đã bị nhầm lẫn là các tác phẩm do Vivaldi sáng tác,
thực tế các tác phẩm này là các tác phẩm của Nicolas Chédeville.

Các danh mục tác phẩm của Vivaldi


Các tác phẩm của Vivaldi thúc đẩy các nỗ lực tạo danh mục để xứng tầm với một nhà soạn nhạc lớn như
ông. Các nghiên cứu chuyên sâu nhằm tăng độ chính xác và sự phong phú trong việc trình diễn các tác phẩm
của Vivaldi cũng góp phần vào việc khám phá các tác phẩm mới khiến cho các danh mục cũ trở nên không
đầy đủ nữa. Các tác phẩm vẫn còn lưu hành đến nay có thể được đánh số theo các hệ thống khác nhau.
(một số danh mục cũ hơn được đề cập đến ở đây).

Vì cách đánh số tuần tự thông thường (Complete Edition (CE)) không thể hiện được sự sắp xếp của riêng
(theo số Opus) mà tác giả đã xếp theo các nhóm, người ta thường dùng cùng một lúc cả phương thức đánh
số Fanna và cách đánh số thứ tự tác phẩm thông thường (CE). Việc phối hợp giữa hai cách đánh số này đặc
biệt phổ biến trong việc thúc đẩy sự trở lại của Vivaldi trong thế kỷ 20 tại Ý, như tại học viện Milano
dưới sự quản lý của Piero Santi. Ví dụ, concerto Si giáng trưởng cho Bassoon, "La Notte" RV 501, được ký
hiệu CE 12, F. VIII, 1.

Bất chấp sự bất tiện khi thay thế cách đánh số thông thường (Complete Edition) bằng Phương thức đánh số
Fanna để tôn trọng cách sắp xếp các tác phẩm thành nhóm của cá nhân Vivaldi, những cách đánh số này thay
thế Phương thức đánh số Pincherle cũ hơn được dùng cho các bản viết tay được tái phát hiện đã làm cho
các danh mục cũ trở nên lỗi thời.

Công việc biên mục này đã được Viện nghiên cứu Antonio Vivaldi tại Ý chỉ đạo, nơi Gian Francesco
Malipiero là giám đốc kiêm biên tập viên cho các tác phẩm đã được công bố (Edizioni G. Ricordi). Công
việc của ông dựa trên những thông tin do Antonio Fanna, một thương nhân người Venice và người sáng lập
viện nghiên cứu cung cấp, nhờ đó đã hình thành cầu nối cho danh mục mang tính học thuật được sử dụng
chủ yếu hiện nay.

Các tác phẩm của Vivaldi ngày nay được nhận biết bằng ký hiệu RV có đánh số, việc đánh số do nhà âm
nhạc học người Đan Mạch Peter Ryom thực hiện cùng với việc công bố tác phẩm hầu hết vào những năm
1970, như là "Ryom-Verzeichnis" và "Répertoire des oeuvres d'Antonio Vivaldi". Cũng như cách đánh số
thông thường (CE) được sử dụng trước đó, RV không được chia ra thành các tập đơn lẻ, các số liên tiếp
nhau được đánh dấu cho các tác phẩm "liền kề" thuộc một trong số các tập (opus) đơn lẻ của tác giả. Mục
đích của nó như một bản danh mục hiện đại để liệt kê các bản viết và các nguồn cung cấp chứng minh
hiện trạng và tính chất của các tác phẩm nổi tiếng. Một số hệ thống đánh số này được tham khảo tại
classical.net.
Trong văn hóa đại chúng
Phim Vivaldi, hoàng tử ở Venice được hoàn thành vào năm 2005 do Ý và Pháp hợp tác sản xuất dưới sự chỉ
đạo của Jean-Louis Guillermou. Năm 2005, Đài Phát thanh ABC được ủy quyền chương trình phát sóng về
Vivaldi do Sean Riley viết. Với tựa đề Thiên thần và Linh mục Đỏ, vở kịch được chuyển thể sang sân khấu
và được diễn tại Festival Nghệ thuật ở Adelaide.[47]

Janice Jordan Shefelman viết một quyển sách dành cho thiếu nhi về cuộc đời của Vivaldi có tựa đề I,
Vivaldi.[48]

Trích đoạn nhạc


Các trích đoạn từ bốn bản concerto cho vĩ cầm với tên gọi Le quattro stagioni (Bốn mùa):

(thông tin file)


(thông tin file)
(thông tin file)
(thông tin file)

Tham khảo
1. ^ “Antonio Vivaldi” (http://www. 10. ^ Marc Pincherle, Vivaldi: 20. ^ Michael Talbot, Vivaldi
mfiles.co.uk/composers/Antonio- Genius of the Baroque (Paris: W. (London: J.M. Dent & Sons, Ltd,
Vivaldi.htm). Truy cập 9 tháng 8 W. Norton & Company, Inc., 1978), 59.
năm 2014. 1957), 16 21. ^ Marc Pincherle, Vivaldi:
2. ^ a ă Michael Talbot, "Vivaldi, 11. ^ H. C. Robbins Landon,Vivaldi: Genius of the Baroque (Paris: W.
Antonio (http://www.oxfordmusi Voice of the Baroque (Chicago: W. Norton & Company, Inc.,
conline.com/subscriber/article/gr The University of Chicago Press, 1957), 38.
ove/music/40120)", Grove Music 1991), 49. 22. ^ H. C. Robbins Landon,Vivaldi:
Online (cần đăng ký mua) 12. ^ Karl Heller, Antonio Vivaldi: Voice of the Baroque (Chicago:
3. ^ Walter Kolneder, Antonio The Red Priest of Venice (Hong The University of Chicago Press,
Vivaldi: Documents of his life Kong: Amadeus Press, 1997), 51. 1991), 31.
and works (Amsterdam: 13. ^ Marc Pincherle, Vivaldi: 23. ^ H. C. Robbins Landon,Vivaldi:
Heinrichshofen's Verlag, Genius of the Baroque (Paris: W. Voice of the Baroque (Chicago:
Wilhelmshaven, Locarno, 1982), W. Norton & Company, Inc., The University of Chicago Press,
46. 1957), 18. 1991), 42.
4. ^ Michael Talbot, Vivaldi 14. ^ Karl Heller, Antonio Vivaldi: 24. ^ a ă â Michael Talbot, Vivaldi
(London: J.M. Dent & Sons, The Red Priest of Venice (Hong (London: J.M. Dent & Sons, Ltd,
Ltd., 1978), 39. Kong: Amadeus Press, 1997), 77. 1978), 54.
5. ^ H. C. Robbins Landon, Vivaldi: 15. ^ Karl Heller, Antonio Vivaldi: 25. ^ Michael Talbot, Vivaldi
Voice of the Baroque (Chicago: The Red Priest of Venice (Hong (London: J.M. Dent & Sons, Ltd,
The University of Chicago Press, Kong: Amadeus Press, 1997), 78. 1978), 58.
1991), 15. 16. ^ a ă H. C. Robbins Landon, 26. ^ Michael Talbot, Vivaldi
6. ^ Michael Talbot, Vivaldi Vivaldi: Voice of the Baroque (London: J.M. Dent & Sons, Ltd,
(London: J.M. Dent & Sons, Ltd, (Chicago: The University of 1978), 71.
1978), 37. Chicago Press, 1991), 26.
7. ^ Karl Heller, Antonio Vivaldi: 17. ^ Marc Pincherle, Vivaldi:
The Red Priest of Venice (Hong Genius of the Baroque (Paris: W.
Kong: Amadeus Press, 1997), 41. W. Norton & Company, Inc.,
8. ^ Michael Talbot, Vivaldi 1957), 24.
(London: J.M. Dent & Sons, 18. ^ a ă Michael Talbot, Vivaldi
Ltd., 1978), 36. (London: J.M. Dent & Sons, Ltd,
9. ^ Karl Heller, Antonio Vivaldi: 1978), 48.
The Red Priest of Venice (Hong 19. ^ Karl Heller, Antonio Vivaldi:
Kong: Amadeus Press, 1997), 40. The Red Priest of Venice (Hong
Kong: Amadeus Press, 1997), 54.
27. ^ Baroque Music (http://www.ba 37. ^ Walter Kolneder, Antonio 42. ^ Michael Lorenz, "Haydn
roquemusic.org/bqxvivaldi.html) Vivaldi: Documents of his life Singing at Vivaldi's Exequies: An
As far as his theatrical activities and works (Amsterdam: Ineradicable Myth" (http://micha
were concerned, the end of 1716 Heinrichshofen's Verlag, elorenz.blogspot.co.at/2014/06/h
was a high point for Vivaldi. In Wilhelmshaven, Locarno, 1982), aydn-singing-at-vivaldis-exequie
November, he managed to have 179. s.html) (Vienna 2014)
the Ospedale della Pietà perform 38. ^ Walter Kolneder, Antonio 43. ^ Michael Talbot, Vivaldi
his first great oratorio, Juditha Vivaldi: Documents of his life (London: J.M. Dent & Sons, Ltd,
Triumphans devicta Holofernis and works (Amsterdam: 1978), 93.
barbaric. [sic] This work was an Heinrichshofen's Verlag, 44. ^ a ă H. C. Robbins Landon
allegorical description of the Wilhelmshaven, Locarno, 1982), (1996). Vivaldi: Voice of the
victory of the Venetians over the 180. Baroque (http://books.google.co
Turks in August 1716. 39. ^ H. C. Robbins Landon supplies m/books?id=lIOtTV648uIC&pg=
28. ^ Karl Heller, Antonio Vivaldi: this assertion and furthermore PA7&lpg=PA7&dq=vivaldi+forg
The Red Priest of Venice (Hong quotes the report of Vivaldi's otten&source=bl&ots=LBb3bBO
Kong: Amadeus Press, 1997), 98. death which reached Venice in zJf&sig=DeRl_TxHjJSGILNfAY
29. ^ H. C. Robbins Landon,Vivaldi: the Commemorali Gradenigo: k30DztrbM&hl=en&sa=X&ei=n
Voice of the Baroque (Chicago: "Abbe Lord Antonio Vivaldi, C_xU4KxN4P1oATkgYG4Aw&
The University of Chicago Press, incomparable virtuoso of the ved=0CGwQ6AEwCQ#v=onepa
1991), 52. violin, known as the Red Priest, ge&q=vivaldi%20forgotten&f=fa
30. ^ Karl Heller, Antonio Vivaldi: much esteemed for his lse). University of Chicago Press.
The Red Priest of Venice (Hong compositions and concertos, who tr. 7–8.
Kong: Amadeus Press, 1997), 97. earned more than 50,000 ducats 45. ^ Antonio Vivaldi biography by
31. ^ a ă Karl Heller, Antonio in his life, but his disorderly Alexander Kuznetsov and Louise
Vivaldi: The Red Priest of Venice prodigality caused him to die a Thomas, a booklet attached to the
(Hong Kong: Amadeus Press, pauper in Vienna." Robbins CD "The best of Vivaldi",
1997), 114. Landon, Vivaldi: Voice of the published and recorded by
32. ^ Chỉ có 3 bức ảnh vẽ Vivaldi Baroque Thames and Hudson Madacy Entertainment Group
trong suốt đời ông còn lại đến 1993, p. 166 Inc, St. Laurent Quebec Canada
nay: bức biếm họa này, tranh 40. ^ Marc Pincherle, Vivaldi: 46. ^ Michael Talbot, liner notes to
khắc gỗ ở đầu bài viết, và một Genius of the Baroque (Paris: W. the CD Vivaldi: Dixit Dominus,
tranh sơn dầu vẽ ông với chiếc W. Norton & Company, Inc., Körnerscher Sing-Verein Dresden
đàn vĩ cầm. Groves Dictionary of 1957), 53. (Dresdner Instrumental-Concert),
Music and Musiciansđã tranh cãi 41. ^ Talbot (p. 69) gives the 27th as Peter Kopp, Deutsche
về tính xác thực của bức tranh the day of death. Formichetti (p. Grammophon 2006, catalogue
cuối cùng, bằng sơn dầu. 194) reports that he died during number 4776145
33. ^ Michael Talbot, Vivaldi the night and his death was the 47. ^ “Angel and the Red Priest by
(London: J.M. Dent & Sons, Ltd, first registered on the next day. Sean Riley” (http://www.abc.net.
1978), 64. Heller (p. 263) states: "The au/radionational/programs/airpla
34. ^ Michael Talbot, Vivaldi composer's death is noted in the y/angel-and-the-red-priest-by-sea
(London: J. M. Dent & Sons, official coroner's report and in n-riley/2916598). Airplay.
Ltd, 1978), 66. the burial account book of St. Australian Broadcasting
35. ^ Michael Talbot, Vivaldi Stephen's Cathedral Parish as Corporation Radio National.
(London: J.M. Dent & Sons, Ltd, having occurred on ngày 28 Truy cập ngày 10 tháng 8 năm
1978), 67. tháng 7 năm 1741". But the so- 2014.
36. ^ Vivaldi's connections with called Totenbeschauprotokoll is 48. ^ Bush, Elizabeth. “I, Vivaldi
musical life in Prague and his not a reliable source, since the (review)”. Bulletin of the Center
association with Antonio Denzio, date can refer to when the entry for Children's Books, 2008.
the impresario of theSporck was made, not to the actual time
theater in Prague are detailed in of death.
Daniel E. Freeman,The Opera
Theater of Count Franz Anton
von Sporck in Prague
(Stuyvesant, N.Y.: Pendragon
Press, 1992).

Sách tham khảo


Brizi, Bruno, "Maria Grazia Pensa" in Music & Letters, Vol. 65, No. 1 (January 1984), pp. 62–64
Bukofzer, Manfred (1947). Music in the Baroque Era. New York, W. W. Norton & Co. ISBN 0-393-
09745-5.
Cross, Eric (1984). Review of I libretti vivaldiani: recensione e collazione dei testimoni a stampa by
Anna Laura Bellina;
Formichetti, Gianfranco Venezia e il prete col violino. Vita di Antonio Vivaldi, Bompiani (2006), ISBN
88-452-5640-5.
Heller, Karl Antonio Vivaldi: The Red Priest of Venice, Amadeus Press (1997), ISBN 1-57467-015-8
Kolneder, Walter Antonio Vivaldi: Documents of His Life and Works, C F Peters Corp (1983), ISBN 3-
7959-0338-6
Quick, Barbara, Vivaldi's Virgins (novel), HarperCollins (2007), ISBN 978-0-06-089052-0.
Robbins Landon, H. C., Vivaldi: Voice of the Baroque, University of Chicago Press, 1996 ISBN 0-226-
46842-9
Romijn, André. Hidden Harmonies: The Secret Life of Antonio Vivaldi, 2007 ISBN 978-0-9554100-1-7
Selfridge-Field, Eleanor (1994). Venetian Instrumental Music, from Gabrieli to Vivaldi. New York, Dover
Publications. ISBN 0-486-28151-5.
Talbot, Michael, Antonio Vivaldi, Insel Verlag (1998), ISBN 3-458-33917-5
Talbot, Michael: "Antonio Vivaldi", Grove Music Online, ed. L. Macy (Accessed ngày 26 tháng 8 năm
2006), (subscription access)

Liên kết ngoài


Catalog of instrumental works
Wikiquote có sưu tập danh
Complete works catalog
ngôn về:
Các công trình liên quan hoặc của Antonio Vivaldi trên các thư Antonio Vivaldi
viện của thư mục (WorldCat)
Nhạc score miễn phí của Antonio Vivaldi tại International Wikimedia Commons có thư
Music Score Library Project viện hình ảnh và phương
tiện truyền tải về Antonio
Free scores by Antonio Vivaldi trong Choral Public Domain Vivaldi
Library (ChoralWiki)
Bản mẫu:MutopiaComposer
Project Anima Veneziana, Free English eBooks: 1. Talbot, M. Vivaldi. 1993; 2. Heller, K. Antonio
Vivaldi: The Red Priest of Venice. 1997; 3. Pincherle, Marc. Vivaldi: Genius of the Baroque, 1957; 4.
Ryom, Peter. Vivaldi Werkverzeichnis. 1st edition, 2007
Vivaldi's Music Podcast

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Antonio_Vivaldi&oldid=28290841”

Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 13:02 ngày 18 tháng 8 năm 2017.
Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự; có thể áp
dụng điều khoản bổ sung. Với việc sử dụng trang web này, bạn chấp nhận Điều khoản Sử dụng và
Quy định quyền riêng tư.
Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận.

You might also like