You are on page 1of 46

Tìm hiểu một số tập đoàn báo chí trên thế giới và

chủ trương hình thành tập đoàn báo chí ở VN

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ở Việt Nam, các điều kiện khách quan và chủ quan gần như đã chín muồi cho việc
triển khai mô hình tập đoàn báo chí. Sau 20 năm đổi mới, báo chí Việt Nam đã lớn mạnh
về mọi mặt và đang có nhu cầu vươn cao, vươn xa hơn nữa.
Trên thế giới, từ hơn 100 năm nay, đã có việc các cơ quan báo chí sáp nhập thành
tập đoàn, hướng đến mục tiêu lợi nhuận kinh tế, mở ra một huớng làm kinh tế cho ngành
công nghiệp báo chí – truyền thông, biến ngành này trở thành một ngành kinh doanh nhiều
lợi nhuận. Xu hướng của các tập đoàn truyền thông hiện nay là vươn ra ngoài lãnh thổ, bởi
sự phát triển của các tập đoàn trong nước đã đến hồi tới hạn. Trong khi đó, châu Á, trong
đó có Việt Nam ta, lại là một thị trường giàu tiềm năng và mới bước đầu được khai phá.
Cùng với đợt sóng này là đợt sóng toàn cầu hoá, khi Việt Nam chuẩn bị gia nhập vào
WTO, như vậy, việc có một tập đoàn làm đối tác của các tập đoàn truyền thông khác, nắm
giữ thế chủ động được xem như là một việc làm cần kíp.
Trên cơ sở nhận định tình hình trong và ngoài nước, nhà nước đã đưa ra chủ trương
cho phép hình thành các tập đoàn báo chí, và trước mắt, tạo một số điều kiện nền tảng để
báo chí gia tăng tiềm lực kinh tế.
Đề tài NCKH SV “Tìm hiểu một số mô hình tập đoàn báo chí trên thế giới và
vấn đề xây dựng tập đoàn báo chí ở Việt Nam” muốn dự phần vào công việc mà Thứ
trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin Đỗ Quý Doãn đã chỉ ra: “Trên thế giới có nhiều tập đoàn
báo chí. Mỗi mô hình có những ưu điểm, đặc trưng riêng của từng nước. Chúng ta nên lựa
chọn, học tập để xây dựng một mô hình cho phù hợp. Đây là một vấn đề rất mới. Chúng ta
phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm”[27].

2. Tình hình nghiên cứu:


Tập đoàn báo chí là một mô hình kinh tế báo chí đã xuất hiện từ rất lâu trên thế
giới, và chủ yếu được các nhà nghiên cứu báo chí – truyền thông trên thế giới tiếp cận
dưới hai góc độ: lịch sử báo chí và xã hội học truyền thông. Do việc hình thành các tập
đoàn báo chí ở các nước tư bản phương Tây tuân theo quy luật phát triển kinh tế, các
nghiên cứu phương Tây không nghiên cứu mô hình kinh tế, mà chủ yếu nghiên cứu về vai
trò của các tập đoàn truyền thông trong đời sống xã hội và đặc biệt là về tác động của
chúng đối với chất lượng báo chí.
Riêng đối với các quốc gia đang phát triển có đặc điểm tương đồng với Việt Nam,
công tác nghiên cứu lại chú trọng đến mô hình kinh tế, bởi thị trường truyền thông ở các
quốc gia này hoặc là chưa hình thành hoặc là đang cần tìm một hướng phát triển. Chính do
động cơ “đi tắt đón đầu”, các quốc gia này đã thực hiện các nghiên cứu về lý thuyết và
triển khai ứng dụng mô hình tập đoàn báo chí từ hơn chục năm trước đây. Ở Trung Quốc,
một quốc gia có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam nhất, công tác nghiên cứu cũng đã
được triển khai từ trước năm 1996 – năm mà tập đoàn báo chí đầu tiên (tập đoàn báo chí
Quảng Châu) tuyên bố thành lập.
Tuy nhiên, do đặc thù về mặt chính trị, nhu cầu nghiên cứu về mô hình tổ chức và
hoạt động của các tập đoàn báo chí mới chỉ trở nên bức thiết ở xã hội Việt Nam trong thời
gian gần đây. Có thể nói, Quyết định 219 của Chính phủ tháng 9/2005 về việc phê duyệt
Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010 đã chính thức khởi động cho các công trình
nghiên cứu về mảng đề tài này.
Kể từ sau khi có chủ trương thành lập tập đoàn, giới làm báo đã công khai bàn luận
về vấn đề “tập đoàn báo chí”: làm thế nào? Như thế nào? Triển vọng ra sao? Một số báo
cũng bày tỏ tham vọng vươn mình thành tập đoàn, như Tiền Phong, Viet Nam Net, Tuổi
Trẻ, SGGP, … Họ cũng tự mình tìm hiểu các mô hình tập đoàn báo chí trên thế giới để áp
dụng ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc làm này chủ yếu mang tính nội bộ. Do vậy, công trình
NCKH SV này là một đề tài hoàn toàn mới mẻ và mang tính thời sự ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
Tuy đây mới chỉ là một nghiên cứu mang tính chất khởi đầu, mục đích của đề tài là
hiểu rõ và gợi ý ứng dụng mô hình tập đoàn báo chí của các nước trên thế giới vào thực tế
truyền thông Việt Nam.
Do vậy, đề tài có hai nhiệm vụ chính. Một là đem lại cái nhìn rộng rãi về các tập
đoàn báo chí tiêu biểu trên thế giới, thông qua việc nghiên cứu mô hình kinh tế, vai trò xã
hội, và tác động đối với đời sống truyền thông. Hai là nhìn nhận lại thực trạng truyền thông
Việt Nam trong bối cảnh chuyển hướng sang hoạt động kinh tế báo chí, để từ đó đưa ra
những gợi ý ứng dụng phù hợp. Nhiệm vụ nghiên cứu mô hình quản lý, do giới hạn về tầm
nhìn, bản lĩnh chính trị và trình độ nghiên cứu khoa học, xin được tạm gác lại.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài:


Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng. Các
phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu là phương pháp tổng hợp, phân tích, so
sánh, mô tả, phỏng vấn lấy ý kiến …
5. Giới hạn của đề tài:
Đề tài “Tìm hiểu một số tập đoàn báo chí trên thế giới và chủ trương hình thành tập
đoàn báo chí ở Việt Nam” là một đề tài có trọng tâm nghiên cứu rõ ràng. Tuy vậy, trong
quá trình nghiên cứu, do hạn chế về nguồn tài liệu tham khảo và năng lực xử lý thông tin
cũng như do giới hạn về các mối quan hệ giao tiếp trong giới báo chí, đề tài buộc phải giới
hạn ở một phạm vi phù hợp.
Trong quá trình tiếp cận với rất nhiều tập đoàn báo chí trên thế giới, người viết chỉ
chọn tìm hiểu và giới thiệu 2 tập đoàn báo chí tiêu biểu của Mĩ (News Corp và Gannett), 6
tập đoàn báo chí của Trung Quốc, và tập đoàn Singapore Press Holdings của Singapore.
Trong quá trình khảo sát bước chuẩn bị thành lập tập đoàn của các cơ quan báo chí,
người viết chỉ chọn tìm hiểu và tiếp cận với 6 cơ quan báo chí (chủ yếu trong lĩnh vực báo
in) là: Tiền Phong, VietNamNet, Thanh Niên, Sài gòn Giải Phóng, Saigon Times Group,
và Tuổi Trẻ.

6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn:


Trong thời gian qua, khái niệm “tập đoàn báo chí” trở thành môt đề tài bàn tán
trong giới báo chí – truyền thông. Nói cách khác, chưa có định nghĩa chính thức về khái
niệm này ở Việt Nam. Ở mức độ nghiên cứu còn hạn chế, đề tài NCKH SV “Tìm hiểu một
số tập đoàn báo chí trên thế giới và chủ trương hình thành tập đoàn báo chí ở Việt Nam”
tạm thời đưa ra một định nghĩa. Ngoài ra, thông qua quá trình nghiên cứu các tập đoàn báo
chí trên thế giới, người thực hiện cũng tạm thời đưa ra một số yếu tố đem lại cái nhìn toàn
diện về một tập đoàn báo chí. Đây chính là ý nghĩa lý luận của đề tài.
Về ý nghĩa thực tiễn, có thể thấy đề tài NCKH SV này là một tài liệu tham khảo có
tính ứng dụng cho các các cơ quan báo chí trong quá trình chuẩn bị tiến tới thành tập đoàn
báo chí theo đúng chiến lược của Bộ Văn hoá – Thông tin. Ngoài ra, đề tài cũng có giá trị
tham khảo đối với SV chuyên ngành báo chí, đặc biệt là các SV muốn có một cái nhìn phổ
quát về thực trạng truyền thông ở Việt Nam và thực trạng truyền thông thế giới.
7. Kết cấu:
Đề tài gồm có 3 chương.
Chương 1: Tổng quan về báo chí Việt Nam giai đoạn 2000 – 2005: tập trung
khái quát thực trạng báo chí – truyền thông ở Việt Nam trong những năm gần đây, phân
chia thành các mảng: báo in, báo nói – báo hình, báo trực tuyến, và những hiện tượng
truyền thông khác. Dựa trên cơ sở thực tế, người viết cho thấy nhu cầu phát triển năng

2
động hơn nữa của đời sống báo chí – truyền thông Việt Nam chính là tiền đề bảo đảm sự
hình thành của các tập đoàn báo chí trong tương lai, theo đúng định hướng của Nhà nước.
Chương 2: Giới thiệu một số mô hình tập đoàn báo chí trên thế giới: tìm hiểu
sơ lược quá trình hình thành các tập đoàn báo chí trên thế giới, thử tiếp cận với khái niệm
“tập đoàn báo chí” trên thế giới, giới thiệu đôi nét về một số tập đoàn báo chí của Mĩ,
Trung Quốc, và Singapore.
Chương 3: Chủ trương hình thành các tập đoàn báo chí ở Việt Nam: tập trung tìm
hiểu quá trình tư duy và chủ trương hình thành tập đoàn báo chí ở Việt Nam của nhà nước,
đồng thời khảo sát bước chuẩn bị của các cơ quan báo chí được đánh giá là có triển vọng
thành lập tập đoàn.

3
Chương 1:
TỔNG QUAN VỀ BÁO CHÍ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 – 2005
Trong 5 năm đầu của thế kỉ 21, tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam có những
chuyển biến mạnh mẽ. Nhiều năm liền, tỉ lệ tăng trưởng GDP ở mức cao trung bình 7%,
đến năm 2005, đạt mức 8,4% [42]. Không khí sôi động là đặc điểm chung trên cả nước,
đặc biệt là ở những đô thị trung tâm, phát triển năng động, dẫn đầu là TPHCM. Đây chính
là điều kiện vô cùng thích hợp cho những trào lưu đổi mới, cải cách để hội nhập. Với
mong muốn vươn lên sánh vai với các nước trong khu vực và thế giới, Việt Nam đang
trong giai đoạn học hiểu về mọi mặt trong thế giới, nắm vững các quy tắc, luật lệ của thế
giới. Kinh tế phát triển, đời sống của người dân được nâng cao, trình độ dân trí phát
triển (hiện nay, tỉ lệ mù chữ ở Việt Nam chưa đầy 7%, “rất thấp so với thế giới” [42]).
Người dân sẵn sàng đầu tư tiền của, thời gian cho việc tiếp nhận thông tin, học tập, vui
chơi giải trí (những chức năng của báo chí), đó là cơ hội dẫn đến sự phát triển tất yếu của
báo chí – truyền thông, theo đúng tinh thần: báo chí đồng hành với sự phát triển kinh tế đất
nước.
Theo tổng kết của Bộ Văn hoá – Thông tin, trong thời kì đổi mới, “hệ thống báo chí
nước ta có bước phát triển quan trọng cả về loại hình, số lượng và chất lượng” [26], với đủ
các phương tiện truyền thông tiên tiến nhất trên thế giới. Ngoài sự phát triển khởi sắc của 3
loại hình báo chí truyền thống là báo in, báo nói, báo hình, là sự nở rộ của loại hình báo
điện tử (hay còn gọi là báo trực tuyến, báo online), và sự “diệu kì” của các loại hình báo
chí qua điện thoại di động. Thực sự, chúng tôi chưa dám khẳng định số liệu chính thức và
mới nhất về báo chí Việt Nam hiện nay, cũng như chưa có được số liệu tăng trưởng báo chí
trong vòng 5 năm trở lại đây. Số liệu được xem là chính thức đối với báo chí trong và
ngoài nước dừng lại ở mốc năm 2004, chủ yếu lấy từ hai nguồn: Bộ Văn hoá – Thông tin
(các phát biểu trước báo giới của Bộ trưởng Phạm Quang Nghị và Thứ trưởng Đỗ Quý
Doãn) và Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung Ương (phát biểu của Trưởng Ban Nguyễn Khoa
Điềm). Các số liệu cập nhật về mảng báo nói, báo hình, báo trực tuyến và các thông tin
khác chủ yếu trích dẫn từ các bài báo và các câu chuyện hậu trường nghề báo[1].
1. Về mảng báo in:
Theo thống kê của Bộ Văn hoá – Thông tin, nước ta hiện có 553 cơ quan báo chí, trong đó
có 157 tờ báo và 396 tạp chí với hơn 713 ấn phẩm báo chí và khoảng hơn 1000 bản tin
[26].
(Ngoài ra, còn có một số liệu khác là 676 cơ quan báo chí, trong đó có 680 “loại báo in”
với hơn 600 triệu bản/năm[2].)
Theo nhận định của tác giả Nguyễn Lê Hoàn,“kể từ khi mở cửa kinh tế, số lượng báo viết
Việt Nam tăng lên nhanh chóng, đến 2004 có hơn 500 cơ quan báo chí với khoảng trên
650 ấn phẩm thay vì 268 ấn phẩm vào năm 1992.” [15] Như vậy, chỉ trong vòng 12 năm,
số lượng ấn phẩm ở nước ta đã tăng gần gấp ba.
Về tổng số lượng phát hành, theo giáo trình “Công tác tổ chức và quản lý cơ quan báo chí”,
GV Bùi Huy Lan cho biết con số phát hành bình quân của gần 700 ấn phẩm báo, tạp chí,
bản tin, xuất bản là gần 2 triệu bản/ngày, trong đó tổng số phát hành của khoảng 160 tờ báo
là 1,7 triệu bản/ngày và của 400 tờ tạp chí là 300.000 bản/ngày. Cả nước có gần 20 tờ báo
xuất bản hàng ngày (được gọi và không được gọi là nhật báo), với con số phát hành
khoảng 1,2 triệu bản/ngày; có gần 20 bản tin thời sự, tin chuyên ngành, tin Thông Tấn Xã
xuất bản hàng ngày với số lượng phát hành hàng trăm ngàn bản/ngày. Tính bình quân số
phát hành các ấn phẩm hàng năm là 600 triệu bản/năm. Có những tờ báo đạt tới con số
phát hành 380.000 bản/ngày như tờ Tuổi Trẻ (số liệu mới nhất – 2006), song cũng có
những tờ báo chỉ đạt ở mức 1500 – 2000 bản/ngày như hầu hết các tờ báo Đảng ở địa
phương.
Thị trường báo chí sôi động nhất vẫn là TP.HCM. Đây là một thị trường đầy tiềm
năng, nơi diễn ra các cuộc cạnh tranh kinh tế giữa các tờ báo.

4
Trang web của Sở Văn hoá – Thông tin TPHCM, ở đoạn “Giới thiệu chung về báo chí
TPHCM”, cho biết cả TP có 38 đơn vị báo chí và 113 văn phòng đại diện của báo chí
Trung ương và các tỉnh, cung cấp một lượng thông tin lớn cho nhân dân thành phố thông
qua hàng chục đầu báo mỗi ngày. Ngoài ra, các toà soạn còn ra phụ san định kỳ, số đặc
biệt nhân các ngày lễ lớn, các dịp kỉ niệm của dân tộc, hoặc nhân ngày thành lập ngành.
Tình hình đầu năm 2006 lại càng cho thấy rõ sự phát triển quyết liệt ở mảng báo in:
TPHCM từ chỉ có 1 tờ nhật báo đúng nghĩa (tờ Sài Gòn Giải Phóng) nay đã có đến 3 tờ
(thêm Tuổi Trẻ và Thanh Niên). Các tờ báo cũng đồng loạt ra những ấn phẩm mới, nhất là
ấn phẩm ngày chủ nhật (cuộc chiến của báo Tuổi Trẻ với báo Thanh Niên, báo Pháp Luật),
tạo nên sự đa dạng các ấn phẩm báo chí ngay trong cùng một cơ quan. Các báo có sự cải
tiến về mặt nội dung và hình thức, thêm nhiều chuyên mục mới, đặc biệt có sự đổi mới ở
các trang quảng cáo, (những tờ báo lớn thường tặng kèm trang thông tin tiêu dùng). Từng
bước, các báo rèn luyện tư duy kinh tế, bên cạnh sự phát triển của hai hoạt động quảng cáo
và PR.
Về mảng tạp chí, tác giả Văn Hùng, công tác ở Vụ Báo chí (Ban Tư tưởng – Văn hoá
Trung Ương) qua bài viết “Phát triển và quản lý hệ thống tạp chí”[3] đã cho thấy một nhận
định gần như toàn diện về tạp chí ở nước ta. Theo đó, hiện nay, số đầu tạp chí lớn hơn
nhiều so với số đầu báo, có gần 400 tạp chí các loại trong khi chỉ có khoảng 200 đầu báo.
Nguyên nhân là sự tăng đột biến của nhu cầu xuất bản tạp chí của nhiều cơ quan, bộ ngành,
tổ chức kinh tế, tổ chức hội, liên hiệp các hội. Nguyên nhân này không những chi phối sự
phát triển của hệ thống tạp chí theo diện rộng (số lượng) mà còn theo chiều sâu (chất
lượng). Các ấn phẩm mang tính xã hội và thương mại cao góp phần dẫn đến sự hình thành
và sôi động hoá thị trường báo chí những năm gần đây. Từ các tạp chí xuất bản hàng quý,
hai tháng, hàng tháng, đến nay, nổi trội là các tờ tạp chí ra 2 – 4 kỳ/tháng (Tạp chí Thế giới
mới, Tạp chí Kinh tế châu Á Thái Bình Dương, Tạp chí Thương mại, Tạp chí Thời trang
trẻ, Tạp chí Tiếp thị Việt Nam, Tạp chí Gia đình Việt Nam …). Xu hướng tăng kỳ phát
hành là kết quả của sự ra đời loại tạp chí mang tính giải trí, đánh trúng thị hiếu của độc giả,
đẩy số phát hành lên cao.
Hiện nay, có thể thấy rõ sự phân chia hai mảng tạp chí: tạp chí chuyên ngành – nội bộ[4]
và tạp chí mang tính giải trí.
Các tạp chí chuyên ngành – nội bộ thường có con số phát hành không đáng kể. Một số tờ
vẫn phải sống nhờ bao cấp, chỉ có khoảng 200 đầu tạp chí trực thuộc liên hiệp hội, các hội
khoa học, hội kinh tế, hội nghề nghiệp, đoàn thể chính trị - xã hội, các hội phi Chính phủ,
… được xếp vào dạng đơn vị sự nghiệp có thu, hoạt động theo cơ chế tự trang trải. Chính
thực trạng “nghèo nàn” của một số tạp chí bao cấp đã góp phần đưa đến một nhận xét của
cơ quan quản lý báo chí: một số tạp chí có cùng tôn chỉ mục đích, dẫn đến sự thừa thãi và
lãng phí.
Mảng tạp chí mang tính giải trí đang chiếm thị phần lớn trên thị trường báo và tạp chí, với
số phát hành xấp xỉ hàng vạn bản mỗi tuần, thậm chí còn lấn lướt cả một số tờ tuần báo
yếu về lực. Mặc dù chỉ mới ra đời khoảng vài chục đầu tạp chí, mảng tạp chí này chính là
một trong những động lực thúc đẩy cạnh tranh kinh tế, tạo đà phát triển cho làng báo. Đó là
các tạp chí Thời Trang Trẻ, Tiếp Thị & Gia Đình, Cẩm nang mua sắm, Sành Điệu, Mốt,
Mốt và Cuộc sống, Tiếp Thị Việt Nam, …
Sở dĩ nhận định các tạp chí nói trên thúc đẩy cạnh tranh kinh tế, tạo đà phát triển cho làng
báo chính là vì có hiện tượng một số tờ báo đã có thương hiệu, và cả các tờ đang gặp “khó
khăn” cũng xin ra số phụ cuối tháng ở dạng tạp chí – như một lối ra, lối thoát hiểm. Đó là
các tờ như Sành điệu của báo Du lịch Việt Nam, Thị trường Tiêu dùng của báo Quốc tế,
Người Đẹp của Tiền Phong, Đẹp của Thông tấn xã, tạp chí truyền hình của các Đài THViệt
Nam, Đài THHN, Đài TH TP.Hồ Chí Minh …
Góp phần làm toàn diện hơn bức tranh về tình hình báo chí của Việt Nam những năm gần
đây, cũng không thể bỏ qua vai trò của hãng thông tấn quốc gia – Thông tấn xã Việt Nam

5
(TTXVN). Ngoài chức năng là ngân hàng tin, TTXVN còn là cơ quan chủ quản của nhiều
tờ báo, trong đó có các tờ Tin Tức, Viet Nam News, … TTXVN có bề dày lịch sử hơn 60
năm hoạt động, với mạng lưới phân xã ở 64 tỉnh thành trong cả nước và hơn 20 phân xã
thường trú ở nước ngoài, chuyên cung cấp cho Trung ương Đảng, Chính phủ, các phương
tiện truyền thông đại chúng, các cơ quan nghiên cứu trong và ngoài nước cùng hàng triệu
độc giả những thông tin về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước [2].
Qua đó, có thể thấy làng báo Việt Nam bắt rất nhạy những xu hướng phát triển mới của
làng báo thế giới: kiếm lời bằng việc kinh doanh tạp chí. Báo in đang “thất thế” trên thị
trường báo chí thế giới và trong cuộc đua cạnh tranh với các loại hình truyền thông khác,
nhưng ở TP.HCM, tình hình chưa đến nỗi như vậy. Vấn đề không chỉ là truyền thống và
tâm lí, vấn đề còn là báo chí nước ta mới chỉ đang ở trong giai đoạn phát triển, chưa bão
hoà.
2. Về mảng báo nói – báo hình:
Do lịch sử gắn liền của đài phát thanh – và đài truyền hình ở nước ta và do kiến
thức chuyên sâu còn giới hạn, người viết trình bày gộp hai mảng báo nói (phát thanh) và
báo hình (truyền hình).
Tổng hợp thông tin từ Bộ Văn hoá – Thông tin, giáo trình “Công tác tổ chức và
quản lý báo chí” của GV Bùi Huy Lan, và thông tin trên một số báo, có thể thấy sự phát
triển về số lượng của các đài phát thanh gần như ở mức bão hoà, trong khi đó, mảng báo
hình lại có sự khởi sắc bởi sự xuất hiện của truyền hình cáp, truyền hình số, truyền hình
Internet.
Tính đến năm 2004, nước ta có khoảng 70 đài Phát thanh – Truyền hình, trong đó
có 2 đài Trung ương (Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam), 4 trung tâm
truyền hình khu vực (Huế, Đà Nẵng, Phú Yên, Cần Thơ), và 64 đài ở 64 tỉnh, thành phố.
Ngoài TP.HCM tổ chức đài phát thanh, đài truyền hình riêng, tỉnh Phú Yên chỉ có đài phát
thanh, các tỉnh, thành khác tổ chức chung thành một đài Phát thanh – Truyền hình [14].
Ngoài ra, mạng lưới cơ sở có trên 600 đài truyền thanh cấp huyện, trong đó có 288 đài đã
phát sóng FM, và có gần 9000 đài truyền thanh, trạm phát lại, chuyển tiếp phát thanh –
truyền hình ở cơ sở phường, xã, tức gần một nửa số xã trong cả nước có trạm truyền thanh.

Căn cứ vào các con số như đã nêu ở trên, có một nhận định phổ biến trong giới báo
chí: Việt Nam có một hệ thống Phát thanh – Truyền hình từ Trung ương đến các tỉnh,
thành, huyện, xã hết sức hùng mạnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những nhận định khả quan theo hướng “biểu dương lực lượng”, vào
khoảng cuối năm 2005, theo tác giả Đinh Phong, sự xuất hiện của nhiều đài Phát thanh –
Truyền hình làm ăn không hiệu quả là một sự “chơi sang”, thừa thãi, lãng phí vì hầu hết
vẫn phải bao cấp. Trong bài viết “Có cần thiết xây dựng 64 đài truyền hình, đài phát thanh
địa phương hay không?”, Đinh Phong nhận định: “Ít có nước nào trên một diện tích không
lớn lại có hệ thống phát thanh, truyền hình quá nhiều như ở nước ta.” Thật vậy, ở Hà Nội,
dẫu đã có 2 đài Trung ương, vẫn có thêm đài PT – TH Hà Nội, ở Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ,
bên cạnh đài khu vực vẫn tồn tại các đài PT – TH địa phương. Trong khi đó, các đài địa
phương chỉ có một số chương trình riêng biệt, tự sản xuất như chương trình thời sự, phim
chuyên đề, phim tài liệu, còn lại là tiếp sóng đài khu vực và đài quốc tế, chiếu phim giải trí
thu quảng cáo. Ngoài một số đài địa phương ăn nên làm ra như Đài PT – TH Bình Dương,
Vĩnh Long, các đài ở tỉnh nhỏ thì thiếu máy móc, thiết bị, thiếu tiền trang trải, nhuận bút
thấp.
Theo đó, sự khởi sắc của hai loại hình báo nói – báo hình tập trung chủ yếu ở các đài
Trung ương, và ở các tỉnh, thành lớn.
Hiện nay, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam đã tăng thời lượng, diện
phủ sóng và có các kênh riêng phục vụ cho thông tin đối ngoại và đồng bào người Việt
định cư, sinh sống ở nước ngoài [38]. Cụ thể, Đài Tiếng nói Việt Nam, cánh chim đầu đàn

6
của ngành phát thanh Việt Nam đã phát 193g/ngày trên 6 hệ chương trình đối nội và đối
ngoại, phát bằng 11 thứ tiếng nước ngoài và 9 thứ tiếng dân tộc, với tổng công suất trên
8000 KW, tín hiệu được truyền dẫn qua vệ tinh; Đài Truyền hình Việt Nam phát trên 5
kênh đối nội và đối ngoại, với thời lượng trên 60 giờ mỗi ngày. Từ đầu năm 2000, Đài
THVH đã truyền qua vệ tinh, phủ sóng đến các nước Châu Mỹ, Châu Âu và nhiều khu vực
trên thế giới. Ước tính, hệ thống phát thanh đã phủ sóng được khoảng 95% lãnh thổ và hệ
thống truyền hình phủ sóng được 85% lãnh thổ[5].
Đó là chỉ nói về mặt kĩ thuật, chuyên môn. Ngoài điều đó, cần đánh giá ngành Phát thanh –
Truyền hình của Việt Nam trên phương diện làm kinh tế. Bởi vì, hiện nay, truyền hình
đang trong quá trình xã hội hóa, đặc biệt có sự xuất hiện của truyền hình trả tiền (pay –
TV). Đây là một miếng “bánh” lớn mà nhiều đơn vị đang muốn đầu tư vào.
Truyền hình trả tiền đã có ở Việt Nam từ lâu, bắt đầu từ sự ra đời của Trung tâm
Truyền hình cáp Việt Nam vào năm 1995. Sự phát triển về mặt công nghệ đã đưa truyền
hình cáp nhanh chóng soán ngôi truyền hình analog (truyền hình truyền thống). Trong
vòng vài năm trở lại đây, truyền hình cáp không còn là đặc quyền hưởng thụ của những
người giàu có. Hiện tại, phổ biến là truyền hình kĩ thuật số mặt đất (do VTC cung cấp),
truyền hình số vệ tinh DTH (ĐTH Việt Nam cung cấp), truyền hình cáp (do SCTV- Công
ty Truyền hình cáp Saigontourist, HTVC, VCTV, HaCTV và một số đài địa phương cung
cấp), mới nhất là truyền hình Internet (truyền hình băng thông rộng IPTV do FPT cung
cấp).
Tính đến năm 2006, cả nước có 20 đơn vị cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền,
phục vụ 460.700 thuê bao; riêng truyền hình kỹ thuật số mặt đất VTC phục vụ khoảng 2
triệu hộ dân. Mỗi mạng truyền hình cáp hiện nay trung bình cung cấp khoảng 25 kênh
(trong đó 7-10 kênh là truyền hình quảng bá của trung ương và địa phương), còn lại là các
kênh truyền hình phổ biến như: Cartoon Network, Discovery, Star Sport, MTV, HBO, Star
Movies...[45]
Tuy nhiên, theo nhận định từ Hội nghị “Đánh giá và trao đổi kinh nghiệm về công
tác quản lý hệ thống truyền hình trả tiền” do Bộ VH-TT tổ chức, ngoài VTV và HTV, đa
số các đài khác chưa đủ năng lực để sản xuất các chương trình riêng cho lĩnh vực truyền
hình trả tiền. Các đài này chủ yếu sử dụng các kênh quảng bá miễn phí quốc tế và tiếp tục
xài “chùa” một số kênh, dù Công ước quốc tế Brussel về bảo vệ bản quyền tín hiệu truyền
hình đã có hiệu lực ở Việt Nam. Lí do là nhà đài không đủ khả năng mua bản quyền, do
chiến thuật sở hữu kênh “độc quyền” đẩy giá bản quyền lên cao; lại cũng do nhà đài không
thể trao đổi thêm kênh truyền hình của các địa phương bạn vì lí do cạnh tranh quảng cáo,
do không đủ khả năng biên, phiên dịch các kênh nước ngoài theo đúng quy định của Bộ
Văn hoá – Thông tin; …
Nếu tạp chí mang tính giải trí thổi một luồng gió mới vào đời sống của làng báo in
thì sự xuất hiện của truyền hình trả tiền, với những bước chuyển đổi ngoạn mục, làm thay
đổi diện mạo của ngành truyền hình ở Việt Nam, đẩy nhanh tốc độ sinh lợi của ngành
truyền hình, với lợi nhuận chia đều cho cả nhà đài, các dịch vụ ăn theo, và chủ sở hữu các
kênh truyền hình quốc tế. Đương nhiên, công chúng cũng hưởng lợi từ sự đa dạng các kênh
truyền hình. Sự phát triển của truyền hình trả tiền là bước tập dượt chuẩn bị cho việc hội
nhập quốc tế trên lĩnh vực truyền thông, tiến tới nắm giữ một trong những thế mạnh của
nền kinh tế báo chí.
3. Về mảng báo trực tuyến:
Theo nhà báo Lê Minh Quốc trong “Hỏi đáp báo chí Việt Nam”, tờ báo trực tuyến đầu tiên
của Việt Nam là tờ Nhân dân điện tử, ra đời vào 21.6.2000, tức là chỉ 4 năm sau khi tờ báo
điện tử đầu tiên của nhân loại – tờ Mainichi Shimbun của Nhật Bản (3. 1996) – ra đời. Rõ
ràng, báo trực tuyến là thành tựu phát triển của nền báo chí Việt Nam thế kỉ 21, đã có 6
năm hình thành và phát triển. Bên cạnh dữ liệu này, theo Trung tâm Internet Việt Nam
(Việt NamNIC), từ 3 – 12 – 1997, Việt Nam đã có tờ báo điện tử đầu tiên là tạp chí Quê
Hương (đến ngày 26/12/2000 tờ này mới chính thức được Bộ Văn hoá – Thông tin cấp

7
phép – NV), tức là 5 năm sau khi tờ báo điện tử đầu tiên trên thế giới – Chicago Online ra
đời (1992). Từ đó, trung tâm này đưa ra nhận định, tốc độ tăng trưởng về số lượng của báo
trực tuyến còn thấp, số lượng đầu báo còn khiêm tốn [3]: từ 1997 – 2004, Việt Nam chỉ có
50 website báo điện tử, trong khi đó thế giới tăng từ 154 tờ (1996) lên đến 14.537 tờ
(2003).
Tuy vậy, “thống trị” mạng Internet trong buổi ban đầu lại là các trang web dịch vụ thông
tin dưới hình thức dịch vụ giá trị gia tăng của các công ty khai thác Internet như Công ty
phần mềm và truyền thông VASC (tờ Viet Nam Net chính thức là báo vào năm 2003, trước
đó là trang web Việt Namn.Việt Nam), Công ty FPT (Tờ Việt NamExpress ra đời vào
26/2/2001), … Xu hướng này tiếp tục phát triển với sự “nâng cấp” các trang web dịch vụ
giá trị gia tăng lên thành báo điện tử của các công ty quảng cáo. Sự kiện trang web
24h.com.vn (Công ty Cổ phần Quảng cáo trực tuyến Hà Nội) bị đóng cửa “tạm” vào quãng
đầu năm 2006 vì hoạt động như một tờ báo trực tuyến là sự minh chứng cho xu hướng này.
Tờ này sẽ chính thức ra mắt sau khi có giấy phép.
Cuối năm 2003 đến đầu năm 2004 được đánh giá là giai đoạn “nở rộ” của các tờ báo trực
tuyến, đánh dấu nhận thức thời đại của các toà soạn báo truyền thống về tầm quan trọng và
vị trí trong lòng độc giả của báo trực tuyến, đặc biệt là hướng tới phục vụ đối tượng bạn
đọc nước ngoài. Hàng loạt các tờ báo như Tuổi Trẻ Online, Thanh Niên Online, Hà Nội
Mới Online, Thể thao Việt Nam Online, … xuất hiện [3], bước đầu chí là bản sao của tờ
báo giấy của chính báo mình và lấy lại thông tin từ các báo khác, nhưng càng về sau, “cuộc
đua” báo trực tuyến lại càng gay cấn, với việc các toà soạn online chủ động làm tin độc lập
với báo giấy, phát huy ưu điểm tương tác – giao lưu của loại hình báo trực tuyến (đặc biệt
là từ nửa cuối năm 2005 trở lại đây). Gần đây, các toà soạn online cũng cố gắng cho ra đời
các ấn bản tiếng Anh, tiếng Trung để phục vụ cho nhu cầu hội nhập như Nhân Dân, Viet
Nam Net, Thanh Niên, Sài Gòn Giải Phóng, …
Tính đến đầu năm 2006, bộ trưởng Phạm Quang Nghị cho biết cả nước có 82 tờ báo điện
tử đang hoạt động. Trong khi đó, con số thống kê chính thức vào năm 2004 của Bộ Văn
hoá – Thông tin cho thấy, kể từ khi luật định vào năm 1999, Việt Nam có trên 50 đơn vị
báo điện tử và nhà cung cấp thông tin, với khoảng 2.500 trang web đang hoạt động.
“Thị trường” báo trực tuyến Việt Nam, mặc dù vẫn chưa “ăn nên làm ra” (chỉ mới bước
đầu thu lợi nhuận từ quảng cáo, chủ yếu sống dựa vào báo giấy hoặc các hoạt động kinh
doanh khác của đơn vị đầu tư), song hiện đang có xu hướng phát triển rầm rộ vì tính chất
thời đại và tiện ích của loại hình báo chí này, đồng thời luồng quảng cáo cũng đang đổ về
loại hình báo chí này. Ông Nguyễn Tuấn Anh, tổng biên tập của Viet Nam Net nói đến chỗ
khó của một tờ báo điện tử: “Nói gì thì nói, với mình đây là cơ quan kinh doanh vì không
được nhà nước bao cấp, bù lỗ. Hiện nay, mỗi năm Công ty VASC vẫn phải bù lỗ cho Viet
Nam Net vài tỷ … Khó khăn nhất với báo điện tử hiện nay là làm thế nào để thu được tiền.
[31]” Bên cạnh nỗ lực tìm đầu vào cho báo trực tuyến, là xu hướng thí điểm tích hợp các
loại hình truyền thông khác, phát huy thế mạnh của báo trực tuyến, đi đầu là các tờ Việt
NamExpress, TTO,...
Thứ trưởng Bộ VH – TT Đỗ Quý Doãn trả lời phỏng vấn báo điện tử Viet Nam Net vào
ngày 25/2/2004 đã nhận định: “Báo điện tử là một “trận địa” rất được coi trọng” [27]. Theo
đó, trong chủ trương phát triển có trọng điểm hệ thống báo chí, Chính phủ ưu tiên phát
triển mảng báo trực tuyến, bởi đây là một trong những xu hướng phát triển rất lớn, hội tụ
công nghệ thông tin, truyền thông, viễn thông, hay nói cách khác, tích hợp các loại hình
báo chí truyền thông trên nền Internet nhiều ưu điểm như thuận lợi, nhanh, không bị hạn
chế về thời gian, không gian, biên giới, …
Theo nhận định của các nhà chuyên môn, báo trực tuyến trong tương lai sẽ lấn lướt thị
phần quảng cáo của báo in.

8
4. Những hiện tượng khác trong đời sống báo chí – truyền thông:
Sự nở rộ của các công ty quảng cáo, các hãng phim tư nhân, … làm cho đời sống
báo chí - truyền thông[6] của Việt Nam trong vòng 5 năm trở lại đây càng thêm sôi động.
Kinh doanh dịch vụ quảng cáo, cũng như làm phim là một cánh cửa chỉ mới hé mở ở Việt
Nam. Đây chính là 2 loại hình truyền thông làm kinh tế hiệu quả nhất.
Theo Hiệp hội Quảng cáo TP.HCM, cả nước hiện nay có khoảng 3000 công ty
quảng cáo, 70% hoạt động ở TP.HCM, trong đó, đáng kể có 10 công ty quảng cáo đúng
nghĩa chuyên nghiệp và trên dưới 30 công ty quảng cáo nước ngoài hoạt động dưới nhiều
hình thức khác nhau.
Những con số dự báo về tiềm năng của thị trường quảng cáo rất khả quan. Kết quả
khảo sát từ Ad age report 2004 cho thấy giá trị thị trường quảng cáo truyền thông trong
nước mỗi năm khoảng 200 triệu USD, và mỗi năm thị trường này tăng trưởng từ 30% -
40%.
Năm 2005, ước tính thị trường quảng cáo trên các phương tiện truyền thông đạt
mức xấp xỉ 300 triệu USD [25]. Tuy vậy, hiện nay, 80% doanh thu của thị trường quảng
cáo Việt Nam thuộc về các công ty nước ngoài, dẫn đầu về thị phần là J.W.Thompson
thuộc tập đoàn WPP gồm 4 công ty “con” là Mindshare, Ogilvy & Mather, J.W.Thompson
và Y & R (40%) , kế đó là những “đại gia” như Dentsu, Sattchi & Sattchi, McCann... Công
ty quảng cáo trong nước có tầm cỡ nhất Việt Nam hiện nay là Đất Việt, với doanh thu ước
tính khoảng 10 – 15 triệu USD/năm. Lí do dẫn đến sự chênh lệch này, một phần là ở đội
ngũ các nhà quảng cáo Việt Nam ít người được đào tạo một cách bài bản, phần khác do
vốn đầu tư và kinh nghiệm đang là ưu thế của các công ty nước ngoài.
Rất ít cơ quan báo chí của Việt Nam khai thác được thị trường tiềm năng này, đa số
chỉ dừng lại ở các phòng quảng cáo tiếp nhận quảng cáo từ các đơn vị làm dịch vụ quảng
cáo. Tuy nhiên, thời cơ để chiếm lĩnh thị trường quảng cáo đang mở rộng cửa với tất cả
mọi người, nhất là khi tính đến năm 2005, ngành quảng cáo ở Việt Nam chỉ mới tròn 10
tuổi. Tất cả hãy đang còn ở phía trước, và hứa hẹn sẽ có sự thay đổi lớn. Ông Alan
Couldrey, Giám đốc điều hành Công ty Ogilvy & Mather khu vực Đông Nam Á đưa ra dự
báo trong bài “Nhân lực ngành quảng cáo sẽ có thay đổi lớn!” đăng trên Người Lao Động,
“thị trường Việt Nam đang thay đổi rất nhanh. Lúc này là thời điểm mà các thương hiệu
mạnh trong nước phát triển và bành trướng. Dĩ nhiên các công ty, tập đoàn quốc tế vẫn sẽ
tiếp tục nắm giữ thế mạnh và có rất nhiều thương hiệu nổi tiếng trên thế giới đã được
người Việt Nam chấp nhận. Vì vậy sự phân biệt đang ngày càng trở nên lu mờ giữa đâu là
một thương hiệu trong nước và đâu là một thương hiệu quốc tế. Đây là những bước phát
triển rất thú vị chứng minh rằng thị trường Việt Nam đang ngày càng phát triển và hoàn
thiện”.
Đời sống người dân nâng cao, những yếu kém trong thực trạng phim truyện Việt Nam, khi
đem so sánh với phim truyện nước ngoài, lại càng lộ rõ . Sau rất nhiều thất bại, trong
khoảng 5 năm trở lại đây, Việt Nam đầu tư nhiều chất xám và tiền của vào việc làm ra các
bộ phim đứng được trên thị trường, không sống nhờ vào bao cấp của nhà nước. Tiên phong
trong xu hướng này là một số đài truyền hình lớn trong nước (nổi bật ở phía Nam là Hãng
phim TFS của Đài Truyền hình TP.HCM và ở phía Bắc là Trung tâm sản xuất Truyền hình
Việt Nam VFC). Song cái mới trong thời gian gần đây là sự nở rộ của các hãng phim tư
nhân. Ở buổi đầu, họ bắt tay với các đài truyền hình để làm các game show, talk show, …
như hãng phim Lasta (hợp tác với tập đoàn Kantana của Thái Lan). Về sau, họ mạnh dạn
tiến sang lĩnh vực điện ảnh và phim truyền hình, và gặt hái một số thành tựu nhất định do
thị trường này đã bỏ ngỏ quá lâu. Tính đến năm 2006, có khoảng 20 hãng phim tư nhân
đang hoạt động theo chủ trương xã hội hoá phim truyền hình, sản xuất và kinh doanh trong
lĩnh vực điện ảnh. Nổi bật trong số những hãng phim “trẻ” này là Hãng phim Thiên Ngân,
Phước Sang, HK Film, Phim Việt, M & T Pictures, …Xu thế Việt kiều về nước hợp tác mở
hãng phim cũng không hiếm, như trường hợp ra đời của hãng phim Kỳ Đồng, và mới đây

9
là hãng Chánh Phương phim của Nguyễn Chánh Tín và Phạm Nghiêm, tốt nghiệp ĐH
Điện ảnh Nam California.
Tình hình ở Việt Nam cho thấy giữa các công ty quảng cáo và hãng phim tư nhân
có sự gắn kết chặt chẽ với nhau, tuân theo quy luật phát triển của thị trường truyền thông.
Có các công ty quảng cáo tiến công sang lĩnh vực làm phim và ngược lại, có những hãng
phim nhận làm phim quảng cáo. Nguồn nhân lực của hai bộ phận này “chi viện” cho nhau,
đôi khi có cùng chủ quản. Cả đôi bên, các hãng phim tư nhân và công ty quảng cáo như
Đất Việt, Cát Tiên Sa, Việt Image, HK Film, Fanatic, Á Mỹ, … hiện đang tập trung khai
thác thị phần trên dưới 100 kênh truyền hình của 70 đài PT-TH trong cả nước, mỗi kênh
phát sóng trung bình 18h/ngày, một số phát sóng 24/24 (chưa kể các kênh tiềm năng của
truyền hình cáp). Tính ra, trung bình mỗi ngày, các đài truyền hình trong cả nước cần
khoảng trên 400 tập phim truyện mới đủ nhu cầu phát sóng, trong khi đó, số đài truyền
hình đủ khả năng sản xuất phim truyền hình chỉ đếm trên đầu ngón tay và cả VFC cộng với
TFS cũng chỉ làm được khoảng 300 tập phim/năm [19]. Điều này sẽ mở đường cho tính
cạnh tranh và đẩy chất lượng phim truyện Việt Nam lên, thực tế đã và đang chứng minh
điều đó.
Ngoài lĩnh vực quảng cáo, xuất bản và phim, xu hướng “xã hội hoá” (chưa phải là
kinh tế hoá) cũng tạo ra nhiều hiện tượng mới trong đời sống báo chí – truyền thông Việt
Nam, tiêu biểu là ở TP.HCM, trong đó có một vài hiện tượng phức tạp mà theo đánh giá
của một số nhà quan sát là nhà nước chưa quản lý được. Đặc biệt nhất hiện nay, việc các
công ty quảng cáo liên kết với một số cơ quan chủ quản để kinh doanh báo chí dưới hình
thức các hợp đồng sản xuất và bán quảng cáo trọn gói (hợp pháp). Việc làm này khiến
nhiều người lo ngại quảng cáo sẽ chi phối nội dung truyền thông, song thực chất, đây là
một hình thức báo chí “tiền tư nhân”, như đã nói ở trên, một lối ra cho các đơn vị cần “cải
thiện” đời sống hoặc cần cải tổ lại phương thức quản lý, điều hành và tổ chức làm báo cho
hiệu quả hơn, gia tăng tiềm lực kinh tế của các báo. Hiện tượng tạp chí mang tính thương
mại – giải trí cũng từ đây mà ra, như các tờ Tiếp Thị & Gia Đình, Thế Giới Văn Hoá (tờ
Văn hoá – Thông tin trước đây), Thể Thao Ngày Nay của công ty quảng cáo Hoa Mặt Trời
(Sunflower), tờ Doanh Nhân Sài Gòn Cuối Tuần, VTM, Nội Thất, … của công ty quảng
cáo NVV. Cũng sẽ đến lúc ngoài khu vực báo chí thời sự tổng quát (báo chính trị xã hội),
nhà nước nên để cho tư nhân khai thác các mảng báo chí thiên về thông tin tiêu dùng – giải
trí – nâng cao chất lượng cuộc sống.
Hiện nay, cũng có xu hướng tổ chức đa loại hình báo chí trong cùng một cơ quan
báo chí: báo in kết hợp với báo trực tuyến (phần lớn các toà soạn báo in hiện nay có thiết
lập trang online), báo trực tuyến kết hợp với báo hình, báo nói (các trang báo trực tuyến
hiện đang thí điểm mô hình tích hợp này), báo hình, báo nói kết hợp với báo in và báo trực
tuyến (các đài Phát thanh – Truyền hình từ sớm đã cho ra đời các tạp chí truyền hình và
mới đây là đưa vào sử dụng trang báo trực tuyến). Tuy nhiên, phần lớn báo trực tuyến
trong dạng thức tích hợp này chưa được công nhận là một ấn phẩm độc lập mà mới chỉ
được xem như là một “ấn bản điện tử” của báo in. Đây cũng là việc bình thường, phù hợp
với tiến trình phát triển báo mạng trên thế giới.
Một hiện tượng khác cũng được xem là mới mẻ trong một năm trở lại đây, đó là sự
tham gia bước đầu của các tập đoàn truyền thông nước ngoài vào đời sống truyền thông
của Việt Nam nhân đàm phán thương mại WTO. Những diễn tiến được đăng tải trên báo
chí trong thời gian gần đây cho thấy rõ điều đó. Trong chuyến “đổ bộ” của 21 tập đoàn
kinh tế Mĩ hồi đầu tháng 3/2006, Phó chủ tịch cấp cao Tập đoàn truyền thông Time Warner
Hugh Stephens khẳng định mong muốn “hợp tác với phía Việt Nam để tận dụng truyền
thống văn hóa lâu đời và đa dạng của Việt Nam”[10]. Tập đoàn này có kế hoạch đầu tư
chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất phim, xây dựng rạp chiếu bóng và hạ tầng điện ảnh. Ngay
sau đó, hãng Warner Bros, sở hữu hơn 170 rạp chiếu phim với hơn 1600 phòng chiếu ở 11
quốc gia trên thế giới, trực thuộc Time Warner, quyết định hợp tác với Hãng phim Thiên
Ngân, đơn vị đầu tiên xây dựng cụm rạp Galaxy 3 phòng chiếu ở Việt Nam, để đầu tư xây

10
dựng và vận hành cụm rạp chiếu phim đạt tiêu chuẩn quốc tế tại Việt Nam.
Vào khoảng giữa tháng 3/2006, tập đoàn in ấn và truyền thông Ringier AG (Thuỵ
Sĩ) nổi tiếng khắp châu Âu, sau 3 năm hoạt động trong các dự án nhân đạo ở Việt Nam đã
có bước đi mới. Trong chuyến thăm Việt Nam vào 16 và 17/3, ông Michael Ringier, chủ
tịch hội đồng quản trị của tập đoàn, không ngần ngại cho biết sẽ tìm hiểu các hoạt động
kinh doanh của tập đoàn trong lĩnh vực báo chí Việt Nam. Ông nói: “Tại Việt Nam, chúng
tôi đang có tham vọng đầu tư thêm vào các báo viết và tạp chí” [10].
Cũng vào cuối tháng 3/2006, công ty cung cấp nội dung Internet Yahoo!Inc hàng
đầu thế giới đã chọn đối tác cung cấp dịch vụ tin tức Yahoo!News là Tuổi Trẻ Online,
trong một nỗ lực bản địa hoá tối đa nội dung của trang web này tại mỗi quốc gia.
5. Một số nhận xét về sự phát triển của báo chí Việt Nam trên phương diện kinh tế:
Báo chí nước ta trong 5 năm trở lại đây phát triển năng động về số lượng và chất
lượng trên tất cả lĩnh vực báo chí – truyền thông. Mặc dù, theo nhận định của thứ trưởng
Bộ Văn hoá – Thông tin Đỗ Quý Doãn, “trong số 500 cơ quan báo chí thì thực chất chỉ có
khoảng 50 tờ báo là có thể tự chủ được về mặt tài chính, còn lại là ngân sách cấp, và mỗi
năm con số này lên đến hơn 40 tỷ đồng!”[10], nhưng tình hình sẽ chuyển đổi theo hướng
sắp xếp lại “những trường hợp chồng chéo về tôn chỉ mục đích, đối tượng phục vụ và kiên
quyết xử lý những tờ báo sai có nhiều sai phạm và sai phạm liên tục, chất lượng kém, cơ
quan chủ quản buông lỏng hoàn toàn cho cơ quan báo chí muốn làm gì thì làm”, “giảm bớt
số đầu mối cơ quan báo chí và tăng mô hình một cơ quan báo chí trong đó có một vài ấn
phẩm theo kiểu phát triển quy tụ”. Đó là nỗ lực của cơ quan chức năng nhằm khắc phục
tình trạng mất cân đối giữa khả năng quản lý và số lượng cơ quan báo chí.
Nhu cầu của công chúng ngày một tăng về chiều rộng cũng như về chiều sâu vừa là
nhân tố đưa đến sự phát triển đó, lại vừa cho thấy đối tượng khách hàng tiềm năng của thị
trường truyền thông còn chưa được/bị khai thác hết.
Với mức xuất bản hiện nay, bình quân 40 người dân chỉ có một tờ báo các loại để
đọc trong ngày, 8 bản báo/người/năm. Đặc biệt, “nhu cầu đọc của dân cư ở tuyệt đại đa số
các tỉnh cách biệt rất xa với hai TP lớn, Hà Nội và TP.HCM. Một nghiên cứu cách đây 10
năm đã cho thấy tỉ lệ mua báo ở TP.HCM cao gấp 6 lần Cần Thơ và gấp 2,4 lần Hà Nội”
[10]. Điều đó dẫn đến tình trạng “đói thông tin” ở một số nơi – một mâu thuẫn khó khắc
phục ngày một ngày hai.
Nhu cầu trong khu vực báo trực tuyến càng tăng lên rõ rệt trong 5 năm qua. Tính
đến thời điểm tháng 5/2004 đã có gần 4 triệu lượt người truy cập các tờ báo điện tử như
VietNamNet, Việt NamExpress, Tuoi Tre Online, Lao động điện tử, chiếm 5,42% dân số
cả nước [10]. Sự gia tăng nhu cầu đọc báo trực tuyến tương ứng với sự gia tăng nhu cầu
truy cập Internet. Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC) thống kê được: trong 6 tháng
cuối năm 2004, Việt Nam có 6.139.424 người truy cập Internet, chiếm tỉ lệ 7,44% dân số;
trong 4 tháng đầu năm 2005 có 7.174.028 người, chiếm tỷ lệ 8,7% dân số (mức bình quân
trong ASEAN, châu Á và thế giới là 7,54%; 8,36%; 14,11%.) [10]
TP.HCM có 6 triệu dân, tương đương với 1 triệu hộ gia đình. Trong khi truyền hình miễn
phí đã phát triển ở mức nhất định, thị trường của truyền hình trả tiền tìm thấy nhu cầu cao
ở công chúng. Hoạt động từ năm 2003, song ngay cả SCTV chỉ có khả năng đáp ứng
10.000 thuê bao. Nếu có đến 20 SCTV thì cũng mới chỉ cung ứng được nhu cầu của 1/5
hộ gia đình ở Việt Nam. Do đó, đây là một lĩnh vực đầy hứa hẹn.
Bên cạnh đó là sự trưởng thành của đội ngũ làm truyền thông, sự tiến bộ của máy
móc, công nghệ, trang thiết bị kĩ thuật. Đến nay, cả nước có 12.000 (số liệu mới nhất là
13.000 – NV) nhà báo chuyên nghiệp, 78% có trình độ đại học báo chí, đại học các chuyên
ngành khác và trình độ trên đại học, 4.118 người có trình độ lý luận chính trị trung cấp,
1.699 người có trình độ lý luận chính trị cao cấp[10]. 1/10 đội ngũ truyền thông của cả
nước sống và làm việc tại TP.HCM. Hội Nhà báo Việt Nam hiện là thành viên Hiệp hội
báo chí các nước ASEAN (CAJ) và Tổ chức quốc tế các nhà báo (OIJ). Hội nhà báo vừa tổ
chức Đại hội VIII Hội nhà báo TP.HCM (13/8/2005) … Điểm yếu kém cần sớm được khắc

11
phục là ở khâu đào tạo đội ngũ truyền thông.
Nếu nói theo kinh tế vi mô, Việt Nam chưa tiến tới đường giới hạn khả năng sản
xuất PPF trong lĩnh vực báo chí – truyền thông, chưa khai thác tất cả các “tài nguyên” sẵn
có trong điều kiện kĩ thuật tốt nhất hiện tại, thị trường vẫn còn rộng thênh thang và đang
loay hoay tìm một chiến lược phát triển dài lâu.
Chính thực tiễn phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của đời sống báo chí – truyền
thông ở Việt Nam đã dẫn đến những đổi mới trong tư duy quản lý báo chí của nhà nước.
Chủ trương hình thành các tập đoàn báo chí ra đời trong bối cảnh đó. Cũng chính vì chưa
từng có tiền lệ trong đời sống báo chí Việt Nam, sự ra đời của chủ trương này dẫn đến
hàng loạt vấn đề mới cần đặt ra và hướng trả lời cho các vấn đề này là các tập đoàn báo chí
trên thế giới.

Tiểu kết
Mục đích của chương 1 là chứng minh sự phát triển trên phương diện kinh tế của
đời sống báo chí – truyền thông Việt Nam trong 5 năm trở lại đây, trình bày những nhân tố
kinh tế tiềm ẩn trong mỗi loại hình báo chí – truyền thông. Trên cơ sở đó, người thực hiện
đề tài đưa ra lập luận về “sự thay đổi hợp lý” trong tư duy quản lý báo chí của Việt Nam,
về sự ra đời của chủ trương hình thành tập đoàn báo chí (sẽ nói cụ thể hơn ở chương 3).
Ngoài ra, sự phát triển bước đầu này cũng đưa đến một yêu cầu khách quan: tìm tòi và học
hỏi kinh nghiệm làm kinh tế truyền thông, cụ thể là làm tập đoàn báo chí, của một số nền
báo chí trên thế giới.

12
Chương 2
GIỚI THIỆU MỘT SỐ TẬP ĐOÀN BÁO CHÍ TRÊN THẾ GIỚI
1. Sơ lược về lịch sử hình thành các tập đoàn truyền thông trên thế giới:
Đối với báo chí thế giới, các thuật ngữ như ngành báo chí newspaper industry,
ngành truyền thông media industry và kinh tế báo chí media economics[7] từ lâu đã trở
thành quen thuộc. Có hẳn những cuốn sách, tạp chí, trang web viết về các vấn đề này.
Đó là vì tiến trình lịch sử của báo chí thế giới đến khoảng giữa thế kỉ 19 đã có một
bước ngoặt lớn, những người làm báo bắt đầu chú ý đến mục tiêu kinh tế trong hoạt động
báo chí và biết cách tổ chức điều hành hoạt động báo chí[8]. (Mặc dù vậy, ở thời buổi
quảng cáo chưa phát triển, phương cách hữu hiệu để đạt được mục tiêu kinh tế mới chỉ là
cải tiến nội dung để tăng doanh số phát hành.)
Có thể thấy rõ bước ngoặt nêu trên khi nghiên cứu nền báo chí Mĩ – một trong
những nền báo chí mạnh nhất thế giới, đặc biệt là ở giai đoạn sau cuộc nội chiến 1865 –
1867.
Thật vậy, đứng trên quan điểm lịch sử, chúng tôi nhận thấy thực trạng báo chí ngày
nay ở một số quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, có nhiều điểm tương đồng
với thực trạng báo chí nước Mĩ hơn 100 năm về trước, nổi bật là khuynh hướng báo chí
làm kinh tế.
Bối cảnh đó cho phép chúng tôi nhận diện cái nôi hình thành các tập đoàn báo chí –
truyền thông ở Mĩ (nơi xuất phát của các tập đoàn truyền thông lớn nhất thế giới hiện nay)
thông qua ba hiện tượng: sự ra đời của nghề làm báo mới new journalism (phân biệt với
thuật ngữ new media trong thời đại Internet), sự giàu có của nghề làm báo vàng yellow
journalism, và sự hình thành các hệ thống báo dây chuyền newspapers chains.
Nghề làm báo mới ở Mĩ ra đời đưa đến sự phát triển rầm rộ của báo chí Mĩ. Vào
thời kì đó, báo chí trở thành “những công ty hùng mạnh, giàu có, tự đảm bảo được về
phương diện kinh tế và nhờ đó, phát huy tốt hoạt động làm báo”[9] Đến cuối thế kỉ 19, báo
chí Mĩ đã trở thành một nền kinh doanh lớn, có tính độc lập tương đối trong đời sống xã
hội. Những nhận định trên cho thấy xuất phát điểm của các tập đoàn báo chí truyền thông
phải là những công ty hùng mạnh, tự chủ được về tài chính.
Nghề làm báo vàng đánh dấu sự xuất hiện của những “Citizen Kane”[10] trong
làng báo thế giới, những con người biết cách đem lại sự hùng mạnh cho các tờ báo trên
phương diện làm kinh tế. Báo chí Mĩ thời kì này đã “mấp mé”, “manh nha” hoạt động theo
mô hình tập đoàn. Bằng những tờ báo mạnh, W.Randolph Hearst – ông vua của nghề làm
báo vàng, đã “thật sự thành công, đem lại gia tài đồ sộ”[11]. Hearst không “dừng lại ở lĩnh
vực làm báo, ông ta còn chuyển sang lĩnh vực xuất bản, lĩnh vực tạp chí và ở bất kì lĩnh
vực nào cũng thành công”[12], đặc biệt là với các tờ hướng đến nhóm đối tượng riêng biệt
như House Beautiful (Nhà Đẹp), Good House Keeping (Nội Trợ Giỏi), … Những nhận
định trên cho thấy hướng phát triển của các “công ty hùng mạnh” chính là từ việc gia tăng
số lượng các ấn phẩm làm ăn hiệu quả, đồng thời mở rộng kinh doanh sang các lĩnh vực có
liên quan đến báo chí.
Bước sang thế kỉ 20, một bước tiến gần hơn với mô hình tập đoàn báo chí, đó chính
là hiện tượng báo dây chuyền, nổi bật với tên tuổi của hai nhân vật E.W.Scripps và Hearst.
Hiện tượng báo dây chuyền ra đời nhằm “khai thác mối liên kết, mối quan hệ giữa nhiều tờ
báo để hỗ trợ nhau về phương diện nghề nghiệp”[13]. Điều đó có thể coi là một nhu cầu tất
yếu. Sự liên kết này diễn ra trên cơ sở các tờ báo có chung một chủ sở hữu (ông trùm),
hoặc thuộc về một liên minh báo chí nào đó (vương triều báo chí). Scripps cũng chính là
người đưa ra công thức để thành lập hệ thống báo chí:
- Người điều hành những tờ báo của dây chuyền phải là những người trẻ tuổi và đứng tên
đồng sở hữu (có chân trong liên minh báo chí), ở vai trò làm chủ bút, hoặc chủ báo.
- Phối hợp hài hoà giữa hai hành vi sáp nhập (mua lại các tờ báo) và sáng lập. Chỉ nên sáng
lập và mua báo ở những thành phố hạng trung, để tránh tình trạng cạnh tranh thua lỗ.
- Bán báo giá rẻ, phải trả tiền cho hệ thống phát hành. (Vào thời của Scripps, báo có giá

13
đồng loạt 1 xu.)
- Vận động cho những mục đích, những lợi ích chung của xã hội, đặc biệt là tầng lớp người
nghèo.
Đây chính là những điều căn bản mà các tập đoàn báo chí lớn trên thế giới hiện nay vẫn
thường ứng dụng trong chiến lược kinh doanh của mình.
Giả thuyết “ba hiện tượng” được kiểm nghiệm qua lịch sử (tự soạn thảo và đăng tải
trên Internet) của một số tập đoàn báo chí lớn trên thế giới. Cho đến nay, theo quy luật phát
triển của nền kinh tế báo chí, hai hệ thống báo dây chuyền của E.W.Scripps và Hearst đã
phát triển lên thành các tập đoàn The E.W.Scripps Company và Hearst Corporation tiếng
tăm trên đất Mĩ[14].
Như vậy, con đường phát triển tất yếu của ngành công nghiệp báo chí – truyền
thông là từng bước chuẩn bị những yếu tố cần thiết để trở nên lớn mạnh: đầu tiên là đổi
mới tư duy theo hướng chú trọng mục tiêu kinh tế (nghề làm báo mới), mở rộng hoạt động
kinh doanh sang các lĩnh vực truyền thông khác (nghề làm báo vàng), mở rộng năng lực
quản lý, điều hành đối nội và đối ngoại ở hàng loạt tờ báo (hiện tượng báo dây chuyền),
tham gia năng động vào nên kinh tế như những doanh nghiệp thực thụ (các tập đoàn báo
chí hùng mạnh). Nền báo chí Mĩ đã tuân theo quy luật phát triển đó, được đánh giá là một
trong những nền báo chí mạnh nhất thế giới, sở hữu nhiều tập đoàn báo chí – truyền thông
hàng đầu nhất thế giới. Đối với Mĩ, ngay từ buổi đầu rẽ vào bước ngoặt kinh tế, người ta đã
coi báo chí – truyền thông là một trong những ngành công nghiệp nặng và cho phép nó
phát triển đến mức tối đa.
2. Khái niệm “tập đoàn báo chí”:
Vì các khái niệm “kinh tế báo chí”, “tập đoàn báo chí” ở Việt Nam tương đối mới và
chưa được làm rõ, việc tìm hiểu nội hàm của các khái niệm này ở các nước trên thế giới là
một việc làm hết sức cần thiết. Trong nghiên cứu này, người thực hiện chủ định tìm hiểu
thông qua các thuật ngữ tiếng Anh.
Hiện nay, báo chí xuất bản bằng tiếng Anh của Việt Nam dịch cụm từ “tập đoàn
báo chí” là “press group”[15]. Người thực hiện không tìm thấy định nghĩa của “press
group” khi sử dụng công cụ tìm kiếm Google. Tuy nhiên, thông qua một số trang web
khác, đặc biệt là trang web của Hiệp hội báo chí thế giới (World Association of
Newspapers - WAN), có thể thấy “press groups” được sử dụng để chỉ “các nhóm báo in”,
không tính đến các loại hình báo khác. Trong phần giới thiệu các thành viên của mình,
WAN đã đề cập đến “nine regional and world-wide press groups”[16], nghĩa là “chín
nhóm báo in có quy mô toàn cầu và quy mô khu vực”. Trang web nghiên cứu thị trường
MarketResearch.com có phạm vi nghiên cứu trải rộng trên toàn cầu, đặc biệt là ở Mĩ, Anh,
châu Âu và châu Á cho thấy rõ hơn ý nghĩa của thuật ngữ này. Trong báo cáo về “Báo chí
Trung Quốc” (China Newspaper Industry) xuất bản vào 08/04/2005, MarketResearch.com
dùng thuật ngữ “press group” để chỉ Guangzchou Daily Press Group, mà Việt Nam vẫn
quen gọi là tập đoàn báo chí Quảng Châu. Như vậy, “press group” thông thường được sử
dụng để gọi các tổ chức có hạt nhân là một cơ quan báo in nổi tiếng lâu đời, và cơ quan
này có tham gia các hoạt động kinh doanh bổ trợ khác.
Tuy nhiên, về mức độ phổ biến trong việc chỉ các tập đoàn báo chí – truyền thông,
“press group” phải nhường bước cho một số thuật ngữ khác. Trong buổi đến thăm và làm
việc ở Khoa Ngữ văn & Báo chí (ĐH KHXH & NV TP.HCM) vào ngày 22/02/2006, Giáo
sư Richard Shafer (ĐH North Dakota, Mĩ) có lời khuyên nên sử dụng các thuật ngữ “media
conglomerate”, “media convergence” để có thể tiếp cận vấn đề cần nghiên cứu.
Theo wikipedia, “media conglomerate” dùng để chỉ các tổng công ty sở hữu một
con số lớn các công ty con hoạt động trong những loại hình truyền thông khác nhau như
truyền hình, phát thanh, xuất bản, điện ảnh, và Internet. Xét trên khía cạnh thuật ngữ kinh
tế, “conglomerate” chỉ một công ty lớn (tổng công ty) bao gồm nhiều công ty con có vẻ
ngoài là các doanh nghiệp không liên quan gì đến nó[17]. Cuốn từ điển bách khoa trên
mạng này cũng cho biết: “Một vấn đề được đặt ra, kể từ năm 2006, là liệu các công ty

14
truyền thông (media companies) có thật không liên quan nhau hay không.”[18]. Và theo
wikipedia, người ta còn sử dụng thêm thuật ngữ “media group” (theo lối hiểu như press
group nhưng bao trùm trên tất cả các loại hình truyền thông, không riêng gì loại hình báo
in)
Trang web wikipedia đưa ra một số “media conglomerate” lớn trên thế giới như:
AT&T, Berlusconi Group, Bertelsmann, Canwest Global, General Electric, Hearst
Corporation, Lagardère Media, Liberty Media, News Corporation, Sony, Time Warner,
The Times Group (phân biệt với Nhóm báo Times của tập đoàn News Corporation),
Viacom, Vivendi Universal, Walt Disney Company, … Tác giả Robert W McChesney
trong bài viết “The New Global Media: It’s a Small World of Big Conglomerate” (1999)
cũng cho biết thị trường truyền thông toàn cầu nằm dưới quyền thống trị của 8 tập đoàn
xuyên quốc gia cai trị thị trường truyền thông Mĩ: General Electric (GE), AT & T/Liberty
Media, Disney, Time Warner, Sony, News Corporation, Viacom và Seagram, cộng với
Bertelsmann, một tập đoàn của Đức. Tuy lĩnh vực kinh doanh chính của GE và AT&T
không phải là lĩnh vực truyền thông nhưng GE sở hữu tập đoàn truyền thông nổi tiếng
NBC, AT & T có công ty con Liberty Media, và cả hai tập đoàn này đang có dự định thu
nạp các tài sản truyền thông nếu thấy cần thiết.
Thuật ngữ “media convergence” (hội tụ truyền thông) có những thuật ngữ tương
đồng như “media consolidation” (tập hợp truyền thông) và “concentration of media
ownership” (sự tập trung trong lĩnh vực sở hữu truyền thông). Đây là một thuật ngữ phổ
biến trong giới phê bình truyền thông cũng như các nhà làm luật khi đề cập đến phương
thức sở hữu các phương tiện truyền thông của các doanh nghiệp.
Thuật ngữ “media convergence” có sự liên hệ mật thiết với thuật ngữ “media
conglomerate” ở chỗ sự tập trung sở hữu trong lĩnh vực truyền thông thường kéo theo sự
hình thành các “media conglomerate”. Khi một doanh nghiệp sở hữu nhiều loại hình truyền
thông khác nhau, nó được xem như là một “media conglomerate”. Sáu “media
conglomerate” hiện thời là Disney, Viacom, Time Warner, News Corp, Bertelsmann, và
General Electric sở hữu hơn 90% thị trường truyền thông toàn cầu.
Như vậy, hiện tượng “media convergence” hay “concentration of media
ownership” chính là khởi điểm để hình thành các “media conglomerate” (các tập đoàn
truyền thông) ở các nước phương Tây. Một lần nữa, giả thuyết về con đường hình thành
các tập đoàn truyền thông trên thế giới đã nêu ở phần C2.1 được khẳng định thông qua
chính bản thân các thuật ngữ.
Ngoài ra, trên thế giới còn sử dụng một số thuật ngữ khác dùng để chỉ “tập đoàn
báo chí” như: media organization, media group, media mega-group, media empires, media
giants, media corporations … Nhưng đó là thuật ngữ dành cho các nhà nghiên cứu. Đối với
bản thân các “tập đoàn báo chí”, tên gọi của tập đoàn phụ thuộc vào hình thức đăng ký
kinh doanh. Có nơi gọi mình là company, có nơi lại gọi là group, có nơi gọi là corporation,
có nơi gọi là holdings, … Do đó, việc có hay không có để danh xưng “tập đoàn báo chí”
không quan trọng bằng nội lực thực sự của mỗi doanh nghiệp truyền thông.
Ở nước ta vẫn sử dụng lẫn lộn hai thuật ngữ “báo chí” và “truyền thông”, đôi khi
đánh đồng chúng với nhau. Do đó, để hiểu cho đúng, phải xem “tập đoàn báo chí” là một
thuật ngữ kinh tế, thuộc về kinh tế truyền thông, có nghĩa hẹp tương đương với thuật ngữ
“press group” và nghĩa rộng tương đương với thuật ngữ “media conglomerate”. Theo đó,
“tập đoàn báo chí” là một tập đoàn kinh tế hoạt động đa dạng trong lĩnh vực truyền thông,
có thể có hạt nhân là một cơ quan báo in, báo hình, hoặc bất cứ loại hình báo chí nào khác,
và cũng có thể tham gia vào một số lĩnh vực kinh doanh ngoài truyền thông.”
Theo tác giả Robert W McChesney, có hai dạng thức tập đoàn báo chí truyền
thông[19].
Thứ nhất là dạng thức tập hợp theo chiều ngang (horizontally integrated); tức là,
tập đoàn thâu tóm gần như trọn vẹn một lĩnh vực truyền thông nào đó, chẳng hạn như lĩnh
vực xuất bản sách.

15
Nhưng ấn tượng hơn phải kể đến tốc độ tập đoàn hoá theo dạng thức thứ hai – dạng
thức tập hợp theo chiều dọc (vertically integrated); tức là, một tập đoàn nắm quyền sở hữu
trong rất nhiều lĩnh vực truyền thông khác nhau, tạo thành một mạng lưới sản xuất và tiêu
thụ liên hoàn, làm ra nội dung truyền thông và có kênh phân phối các nội dung truyền
thông đó. Dấu hiệu để phân biệt một tập đoàn thống trị theo dạng thức này là khả năng
khai thác “sức mạnh tổng hợp” giữa các công ty mà nó sở hữu.
Về phương diện này, hai tác giả Johannes von Dohnanyi và Christian Moller của
nghiên cứu “The Impact of Media Concentration on Professional Journalism” (Tác động
của sự tập trung truyền thông đối với nghề báo) cũng khái quát: “Sự tập trung có thể diễn
ra theo chiều dọc, tức là tập trung các thể chế kinh tế độc lập với các công đoạn sản xuất
khác nhau lại làm một tập đoàn, hoặc diễn ra theo chiều ngang, tức là sáp nhập các công ty
giống nhau về công đoạn sản xuất.”[20]

3. Giới thiệu một số tập đoàn báo chí trên thế giới:
Nói đến một tập đoàn (ở đây là nói đến tập đoàn truyền thông), trước hết là nói đến
sản nghiệp của tập đoàn, phương châm của tập đoàn, cơ cấu tổ chức, các hoạt động của tập
đoàn, mà những điều này thường được các tập đoàn trên thế giới công khai giới thiệu trên
trang web của mình. Sau nữa, mới đi sâu vào tìm tòi cơ chế quản lý, cơ chế sở hữu, những
vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh xung quanh tập đoàn. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một
đề tài NCKH cấp trường, lại bị giới hạn bởi kiến thức trong lĩnh vực kinh tế và pháp luật,
dù người viết cố để tâm tìm hiểu các vấn đề nội bộ này, kết quả đạt được mới chỉ ở bước
đầu. Các tài liệu sử dụng trong phần này chủ yếu được lấy từ trang web của các tập đoàn,
trang web của các báo trong và ngoài nước, cũng như từ các báo cáo khoa học được công
bố trên mạng Internet.
3.1. Một số tập đoàn báo chí Mỹ:
Về quy mô của các tập đoàn báo chí Mĩ, nhiều nhà nghiên cứu đã gọi chúng là “các
đế chế truyền thông”, “những gã khổng lồ” (media empires, media giants), bởi cả về quy
mô hoạt động, khả năng tài chính, tầm ảnh hưởng của các tập đoàn này đều vươn ra khắp
toàn cầu. Trong một tập đoàn truyền thông Mĩ, có thể có những tập đoàn truyền thông
“con” khác.

3.1.1. Tập đoàn News Corporation:


3.1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển:
Sự hình thành và phát triển hùng mạnh của tập đoàn truyền thông News
Corporation (viết tắt là News Corp) ghi dấu ấn đậm nét của “nhà tài phiệt truyền thông”
(media tycoon) người Mĩ gốc Úc Rupert Murdoch. Lịch sử của tập đoàn có thể viết gọn
trong các vụ thừa kế, sáng lập, sáp nhập, và mua bán.
Từ tờ báo tỉnh lẻ hạng hai Adelaide News của người cha (1952), Rupert Murdoch
thành lập tập đoàn báo chí News Limited có tầm ảnh hưởng rộng rãi bậc nhất ở Úc (hiện
nay, News Limited vẫn là công ty con ở Úc của News Corp). News Limited chuyên mua
lại các tờ báo làm ăn lỗ lã ở Úc và vực chúng dậy bằng cách ứng dụng công nghệ quản lý
tiên tiến và cải tổ nội dung. Trong vòng 10 năm, News Limited đem lại cho Murdoch
khoản lợi nhuận “kếch sù”. Năm 1979, Murdoch thành lập News Corporation trên đất Úc
và bắt đầu thu mua những tờ báo và tạp chí hàng đầu London (Anh) và New York (Mĩ),
cũng như thu mua nhiều tập đoàn truyền thông khác.
Ở Anh, thông qua công ty con News International, News Corp của Murdoch có ảnh
hưởng mạnh mẽ trong làng báo Anh, đặc biệt là từ khi sở hữu hai hệ thống báo Times
Newspapers và News Group Newspapers (khoảng thời gian cuối thập niên 80 của thế kỉ
20) và một phần hệ thống truyền hình trả tiền BskyB (năm 1990).
Từ thời News Limited, Murdoch đã vào thị trường truyền thông Mĩ bằng cách mua
tờ San Antonio News (1973), ngay sau đó sáng lập tờ National Star và mua tờ New York
Post (1976). Khi đã thành lập News Corp, Murdoch bắt đầu “tiến công” sang lĩnh vực

16
phim ảnh (xưởng phim nổi tiếng nhất của News Corp là 20th Century Fox) và phát thanh
truyền hình (năm 1985, Murdoch lấy quốc tịch Mĩ để thuận lợi trong việc sở hữu các đài
truyền hình của Mĩ). Hiện nay, mạng lưới truyền hình Fox (do công ty con Fox
Broadcasting Company điều hành) đã lan toả đến 96% hộ gia đình Mĩ.
Vào năm 1993, News Corp mua đài truyền hình STAR có trụ sở chính ở Hong
Kong, với tham vọng tiến vào thị trường truyền thông Trung Quốc, bởi đây là kênh truyền
hình vệ tinh phát khắp khu vực châu Á.
Trong suốt thập niên 90 của thế kỉ 20, News Corp chiếm thị phần lớn trong lĩnh
vực truyền hình trả tiền ở cả 3 châu lục. Năm đầu thế kỉ 21, News Corp thành công trong
lĩnh vực kinh doanh Internet với AOL.
Đến giữa năm 2005, News Corp chuyển hướng sang lĩnh vực kinh doanh truyền
thông mới, nhằm tiếp tục làm “bá chủ” thị trường truyền thông trong tương lai. Thành công
đầu tiên của News Corp là hiệu ứng xã hội và lợi nhuận truyền thông của website
MySpace.com.
Tính đến 30/6/2005, News Corporation có tổng giá trị tài sản xấp xỉ 55 tỉ đôla, tổng
doanh thu hàng năm xấp xỉ 24 tỉ đôla. Tổng số nhân viên của News Corp xấp xỉ 40.000
người (Thông tấn xã Xinhua của Trung Quốc cũng chỉ có 10.000 nhân viên).

3.1.1.2. Cơ cấu tổ chức:


News Corp có cơ cấu tổ chức như một tập đoàn kinh tế, bên dưới là vô số những
công ty con (có quy mô cũng như một tập đoàn, có ban điều hành riệng). Rupert là Chủ
tịch Hội đồng quản trị kiêm CEO (Tổng giám đốc điều hành) của tập đoàn (Gia đình
Murdoch tiếp tục nắm giữ 29% cổ phần của tập đoàn).
Ban Giám đốc tập đoàn News Corp gồm có 14 người (Board of Directors). Nhiệm
vụ của Ban Giám Đốc là quan sát toàn bộ hoạt động kinh doanh của News Corporation
(bao gồm Công ty mẹ và các công ty con) và chịu trách nhiệm việc điều hành Công ty mẹ
(tức News Corp). Ban Giám Đốc thiết lập các chính sách chung, đề ra hướng chiến lược
cho toàn bộ tập đoàn, và chú trọng vào việc gia tăng lợi nhuận cho các cổ đông.
Ngoài ra còn có 3 Uỷ Ban (Board Committees) là Uỷ ban Kiểm toán (Audit
Committee), Uỷ ban Đề cử và Quản trị tập đoàn (Nominating and Corporate Governance
Committee), và Uỷ ban Bồi thường (Compensation Committee) với những người đứng đầu
là các thành viên Ban Giám Đốc không tham gia hoạt động kinh doanh của tập đoàn (non-
executive Directors). Vào tháng 04/2004, Viet Dinh (Đinh Phụng Việt), giáo sư luật trường
ĐH Georgetown trúng cử làm thành viên Ban Giám đốc của News Corp, giữ chức chủ tịch
Uỷ ban Đề cử và Quản trị tập đoàn (Nominating and Corporate Governance Committee)..
Các tiêu chuẩn đạo đức (Ethical Standards) mà tập đoàn đề ra được tóm gọn trong
văn bản “Các tiêu chuẩn Hoạt động Kinh doanh” (Standards of Business Conduct). Theo
đó, tập đoàn điều hành hoạt động kinh doanh theo đúng các luật lệ và quy định, đồng thời
luôn chú trọng đến các tiêu chuẩn đạo đức kinh doanh cao nhất. Tất cả mọi người từ giám
đốc cho đến các nhân viên của tập đoàn (kể cả ở các công ty con) đều phải theo đúng tinh
thần này.
3.1.1.3. Các hoạt động truyền thông:
News Corporation là một công ty hoạt động đa dạng trong lĩnh vực giải trí và
truyền thông. 8 lĩnh vực chủ yếu là:

(1) Phim giải trí (Filmed Entertainment):


Các tác phẩm điện ảnh nổi tiếng của News Corp là Star Wars, Star Wars Episode I:
The Phantom Menace, và Titanic. Các phim truyền hình được sản xuất ở các studio (phim
trường) của News Corp cũng được đánh giá cao và tập đoàn là nhà cung cấp hàng đầu các
phim giờ vàng trên truyền hình Mĩ. News Corp có khoảng 11 studio, trong đó nổi tiếng
nhất là hãng 20th Century Fox .

17
(2) Truyền hình (Television):
Các hoạt động truyền hình của News Corp trải rộng khắp năm châu, sử dụng các
công nghệ tiên tiến truyền hình số, truyền hình tương tác, truyền hình vệ tinh. Các đài
truyền hình của tập đoàn đã trải qua 10 năm liên tục thu lợi nhuận, và FOX Broadcasting
Company (Tập đoàn truyền hình FOX) là mạng lưới truyền hình được những người trẻ
xem nhiều nhất. Lợi nhuận quan trọng nhất của News Corp đến từ các chương trình truyền
hình vệ tinh và truyền hình cáp. Các chương trình tin tức, thể thao, giải trí, … thu hút gần
300 triệu người đăng ký.
Các kênh truyền hình cáp nổi tiếng nhất (với các chương trình địa phương và quốc
tế) của News Corp là: Fox College Sports (kênh thể thao), Fox Movie Channel (chuyên
chiếu các phim của hãng 20th Century Fox), Fox News Channel (kênh tin tức), Fox
Reality, …
Các thương hiệu truyền hình vệ tinh phát sóng trực tiếp (direct broadcast satellite
television) nổi tiếng nhất của News Corp là BskyB (Anh), DirecTV (Mĩ), Foxtel (Úc), Sky
Italia (Ý), Star TV (châu Á), …

(3) Tạp chí và phụ trương (Magazines & Inserts):


News Corp là cổ đông lớn nhất của Gemstar-TV Guide International, tạp chí
chuyên cung cấp thông tin về các chương trình truyền hình tương tác hàng đầu thế giới và
là tạp chí truyền hình cao cấp. News Corp cũng sở hữu News America Marketing, chuyên
đăng tải các thông tin khuyến mãi tiêu dùng, phục vụ hàng triệu người mua sắm mỗi tuần.
Ngoài ra còn có Big League, InsideOut, donna hay, ALPHA, SmartSource, The Weekly
Standard.

(4) Báo chí (Newspapers):


Thế mạnh của News Corp là xuất bản các tờ báo tiếng Anh. Các tờ báo của tập
đoàn có mặt ở hầu khắp mọi nơi: Anh, Úc, Fiji, Papua New Guinea, và ở Mĩ. News Corp
có hơn 175 tờ báo khác nhau, in khoảng 40 triệu ấn bản/tuần. Đội ngũ phóng viên 15.000
người có mặt ở khắp mọi nơi trên thế giới.
Các tờ báo ở Úc (khoảng 21 tờ) là: The Australian (phát hành toàn quốc), The
Weekend Australian (phát hành toàn quốc), The Courier-Mail (Queensland), The Sunday
Mail (Queensland), The Cairns Post (Cairns, Queensland), The Gold Coast Bulletin (Gold
Coast, Queensland), The Townsville Bulletin (Townsville, Queensland), The Daily
Telegraph (New South Wales), The Sunday Telegraph (New South Wales), The Herald
Sun (Victoria), The Sunday Herald Sun (Victoria), The Weekly Times (Victoria), MX
(Melbourne and Sydney CBD), The Geelong Advertiser (Geelong, Victoria), The
Advertiser (South Australia), The Sunday Mail (South Australia), The Sunday Times
(Western Australia), The Mercury (Tasmania), The Sunday Tasmanian (Tasmania),
Northern Territory News (Northern Territory), The Sunday Territorian (Northern
Territory), …
Ở Fiji có tờ Fiji Times.
Ở Papua New Guinea có tờ Papua New Guinea Post-Courier.
Các tờ báo ở Anh được xuất bản bởi News International Ltd.: các tờ khổ nhỏ
(tabloid) The Sun và News of the World (thuộc nhóm báo News Group Newspapers Ltd.),
các tờ khổ lớn như The Sunday Times, The Times (hiện nay là khổ bỏ túi), The Times
Educational Supplement, The Times Literary Supplement.

18
Ở Mĩ có tờ New York Post.

(5) Xuất bản sách (Book Publishing):


HarperCollins Publishers là một trong những đơn vị xuất bản sách lớn nhất và năng
động nhất trên thế giới, gần đây đã mua lại những tên tuổi nổi tiếng trong giới kinh doanh
sách như William Morrow & Company, Avon Books, Amistad Press, and Fourth Estate.
Ngoài ra, HarperCollins Publishers còn là công ty mẹ của 2 đơn vị kinh doanh sách khác là
ReaganBooks và Zondervan.

(6) Các lĩnh vực khác (Internet, các trang web giải trí, game, quảng cáo ngoài trời, công
nghệ viễn thông, âm nhạc, thể thao, …).

Hoạt động kinh doanh của News Corp diễn ra chủ yếu ở Mĩ, châu Âu, Úc, châu Á,
và khu vực Thái Bình Dương (70% lợi nhuận đến từ thị trường truyền thông Mĩ).

3.1.2. Tập đoàn Gannett:


3.1.2.1. Quá trình hình thành:
Tập đoàn Gannett là tập đoàn báo in lớn nhất nước Mĩ (chuyên phát hành báo in,
chú trọng thông tin và tin tức), xét về tổng số lượng phát hành hằng ngày. Gannett được
sáng lập bởi Frank E. Gannett vào năm 1906, niêm yết trên thị trường chứng khoán vào
năm 1967. Vào năm 1972, Gannett tuyên bố thành lập lại tập đoàn ở bang Delaware, nơi
luật lệ truyền thông tương đối thông thoáng. Tập đoàn có xấp xỉ 10,500 cổ đông ở khắp 50
tiểu bang và cả ở một số nước khác. Tập đoàn có khoảng 52.600 nhân viên. Tổng doanh
thu của tập đoàn khoảng 7.6. tỉ đôla (2005), tức là chỉ bằng khoảng 1/3 tổng doanh thu của
tập đoàn News Corp.
Về cơ cấu tổ chức, Gannett có Hội đồng quản trị và một Ban Giám Đốc gồm 10
người. Hai nhân vật quan trọng nhất của tập đoàn là Chủ tịch Hội đồng quản trị Douglas
H. McCorkindale và CEO Craig A. Dubow. Gannett cũng có 3 Uỷ ban (Board
Committees): Gannett Management Committee (Uỷ ban Quản trị) sắp xếp toàn bộ chính
sách cho tập đoàn. Gannett Newspaper Operating Committee (Uỷ ban điều hành hoạt động
báo chí) theo dõi hoạt động của các tờ báo của tập đoàn. Gannett Broadcasting Operating
Committee (Uỷ ban điều hành hoạt động truyền hình) quản lý thông qua các chính sách đối
với các đài truyền hình thuộc sở hữu của tập đoàn.
Quan điểm của Gannett là: người tiêu dùng sẽ đến với Gannett để được thoả mãn
mọi nhu cầu về thông tin (information) và tin tức (news), vào bất cứ lúc nào, ở bất cứ nơi
đâu, dưới mọi hình thức.
Nhiệm vụ của Gannett là: Đưa tập đoàn hội nhập với môi trường (truyền thông)
mới một cách thành công, cung cấp các thông tin và tin tức phải có (must-have), theo yêu
cầu, trên mọi lĩnh vực truyền thông, với tất cả tinh thần trách nhiệm của người làm báo.

3.1.2.2. Các hoạt động trong lĩnh vực truyền thông:


Số lượng ấn phẩm của tập đoàn báo chí Gannett: Ở Mĩ, tập đoàn có 90 nhật báo,
bao gồm tờ nhật báo nổi tiếng trong lịch sử báo chí thế giới USA Today, và có gần 1000 ấn
phẩm khác không phải là nhật báo. Mỗi nhật báo của tập đoàn lại có một website giới thiệu
các tin tức và quảng cáo. Ở Anh, mọi hoạt động của Gannett đều thông qua “tập đoàn con”
là Newsquest Media Group, với 17 nhật báo và hơn 300 ấn phẩm khác. Newsquest là nhà
phát hành báo chí lớn thứ 2 ở Anh.
Riêng về báo trực tuyến, vào tháng 12/2005, công chúng Internet của Gannet lên
đến gần 21 triệu người, chiếm khoảng 13,5% công chúng Internet, theo khảo sát của
Nielsen/NetRatings.

19
Về lĩnh vực truyền hình, Gannett điều hành đến 21 đài truyền hình ở nước Mĩ
(nằm trong các mạng lưới truyền hình lớn nhất nước Mĩ như CBS, NBC, ABC, UPN) với
thị phần 19,8 triệu hộ gia đình. Mỗi đài truyền hình này lại có một website mang tính địa
phương giới thiệu tin tức, các nội dung quảng cáo và giải trí, dưới dạng văn bản và cả dưới
dạng video. Thông qua công ty con Captivate, hệ thống phát hình này còn chuyển tải tin
tức và quảng cáo tới công chúng qua các màn hình video đặt ở các cao ốc văn phòng và
thang máy của một số khách sạn.
Các lĩnh vực hoạt động khác:
Bên cạnh các hoạt động kinh doanh truyền hình và báo chí – xuất bản, tập đoàn còn
có chiến lược đầu tư vào mảng quảng cáo online thông qua công ty con PointRoll – cung
cấp cho các nhà quảng cáo trực tuyến những dịch vụ tiếp thị truyền thông chất lượng, và có
một số đầu tư quan trọng khác, như đầu tư vào CareerBuilder cho quảng cáo tìm người;
đầu tư vào Classified Ventures cho các mẩu quảng cáo về bất động sản và xe hơi; đầu tư
vào Topix.net, chuyên thu thập thông tin về sản phẩm và dịch vụ của các công ty khác;
ShermansTravel, một dịch vụ du lịch online; ShopLocal, một nhà cung cấp các phương
cách tiếp thị online cho các nhà quảng cáo ở địa phương, khu vực, trong nước; và vào
4INFO, chuyên cung cấp các dịch vụ tìm kiếm qua điện thoại di động.
Ngoài ra, Gannett còn có một tổ chức phi lợi nhuận là Gannett Foundation (Quỹ tài
trợ Gannett), chuyên tài trợ các tổ chức cộng đồng ở những nơi mà Gannett sở hữu nhật
báo hoặc đài truyền hình. Quỹ này hướng đến các dự án đưa ra những giải pháp sáng tạo
cho các vấn đề nền tảng, chẳng hạn như giáo dục và phát triển, phát triển kinh tế, phát
triển sức trẻ, giải quyết các vấn đề của cộng đồng, hỗ trợ những người cơ nhỡ, bảo vệ môi
trường, làm giàu bản sắc văn hoá, …, đặc biệt là các dự án đào tạo nghề báo.
3.1.3. Một số vấn đề xung quanh các tập đoàn truyền thông Mĩ:
Bài viết “The New Global Media: It’s a Small World of Big Conglomerates” của
tác giả Robert McChesney, một nhà nghiên cứu truyền thông nổi tiếng trên thế giới, cho
thấy có 2 cấp độ tập đoàn truyền thông trên thế giới. Cấp 1 bao gồm khoảng 9 tập đoàn
truyền thông đa quốc gia (hầu hết đến từ Mĩ). Cấp 2 bao gồm các tập đoàn truyền thông
khu vực hoặc quốc gia (hầu hết đến từ Bắc Mĩ, Nhật, châu Âu). Xu hướng của cả 2 cấp là
vươn ra khỏi bờ cõi quốc gia, tìm đến với các thị trường truyền thông chưa được khai phá
(chẳng hạn như châu Á). Tác giả nêu bật mâu thuẫn giữa sự bành trướng và tham vọng lợi
nhuận của các tập đoàn truyền thông với sự kháng cự lại của truyền thống và văn hoá của
các nước có thị trường truyền thông chưa phát triển, để rồi cuối cùng, chiến thuật không
đối đầu được xem là một chiến thuật hữu hiệu.
Ngoài ra, tác giả Robert cũng đặt ra một vấn đề đáng quan ngại khác: sự bất bình
đẳng trong hưởng thụ truyền thông. Hiện tại, thứ báo chí tốt nhất thuộc về tầng lớp doanh
nhân, phục vụ các nhu cầu và định kiến của giới này. Báo chí phục vụ cho công chúng có
khuynh hướng là một thứ báo chí “vớ vẩn” do các tập đoàn truyền thông cung cấp, qua các
đài truyền hình của Mĩ. Sự xuống cấp về chất lượng báo chí không dễ nhận ra.
Robert McChesney cho rằng: “Thật vậy, cái tài của hệ thống truyền thông – thương
mại là không có quy trình kiểm duyệt công khai. Như George Orwell lưu ý trong lời giới
thiệu của cuốn sách chưa được xuất bản Animal Farm, sự kiểm duyệt trong các xã hội “tự
do” thông thái hơn và hoàn hảo hơn rất nhiều trong các xã hội chuyên chế, bởi vì “những
ý tưởng bất thường có thể im lặng, những sự thật bất lợi có thể nằm lại trong bóng tối, mà
không cần phải có một lệnh cấm chính thức nào.””[21] Đó chính là một nguy cơ đe doạ
nền dân chủ và các tập đoàn báo chí luôn tìm cách khắc phục điều này bằng cách nâng cao
trách nhiệm xã hội của mình.
Một vấn đề khác cũng không kém quan trọng trong thời đại “truyền thông mới”
ngày nay, một số tập đoàn không thức thời đang gặp nhiều khốn đốn trong kinh doanh,
nhất là về khoản cạnh tranh quảng cáo. Điển hình là hồi đầu tháng 03/2006, Knight
Ridder, tập đoàn báo in số 2 ở Mĩ, đã phải bán hàng loạt các tờ báo vì làm ăn thua lỗ.
Thị trường truyền thông Mĩ là nơi thường diễn ra các thương vụ mua bán, sáp nhập,

20
nên về bản chất là không ổn định. Ngoài ra, giới kinh doanh truyền thông Mĩ luôn hướng
tới mục tiêu tự do sở hữu các kênh truyền thông, nên họ luôn vận động cho việc tháo dỡ
những luật lệ trói buộc phạm vi kinh doanh. Điều đó dẫn đến sự phản đối của các nhà hoạt
động dân chủ, và cả của một bộ phận công chúng truyền thông vì họ lo ngại đến vấn đề tự
do báo chí.
3.2. Các tập đoàn báo chí ở Trung Quốc:
Do không có điều kiện đến Trung Quốc để trực tiếp nghiên cứu và do hạn chế về
ngôn ngữ công cụ (tiếng Hoa), phần báo cáo này được thực hiện chủ yếu dựa trên nguồn
tài liệu về các tập đoàn báo chí Trung Quốc đã đăng tải trên hai tờ báo Thời báo Kinh tế
Sài Gòn, Sài Gòn Giải Phóng và tạp chí Nghề Báo. (Trang web của một số tập đoàn báo
chí Trung Quốc vẫn không có version tiếng Anh, một điều mà đa số các tập đoàn báo chí
lớn trên thế giới đều có.) Ngoài ra, người viết cũng tham khảo một số tài liệu bằng tiếng
Anh để làm phong phú thêm báo cáo.

3.2.1. Sự ra đời của các tập đoàn báo chí TRUNG QUốC:
Theo nghiên cứu “Nền báo chí Trung Quốc”[22] do mạng MarketResearch.com
tiến hành (NXB Tri thức Trung Hoa ấn hành vào tháng 4/2005), các tập đoàn báo chí
Trung Quốc ra đời là kết quả tất yếu của sự phát triển khi báo chí tham gia kinh tế thị
trường ở Trung Quốc, và sự ra đời này diễn tiến theo hướng tập hợp các cơ quan báo chí
lại với nhau (nguyên văn là newspaper companies ý chỉ các cơ quan báo chí trên thực tế đã
hoạt động như một doanh nghiệp).
“Khi Trung Quốc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường,
ngành báo chí cũng dần dần phát triển theo hướng chuyển đổi, tiến tới cạnh tranh thị
trường. Sự tồn tại của một cơ quan báo chí (nguyên văn là publisher với ý chỉ những cơ
quan phát hành các ấn phẩm báo chí – truyền thông) giờ phụ thuộc vào các hoạt động
kinh doanh tự thân hơn là dựa vào hỗ trợ của chính phủ. Sự cạnh tranh giữa các cơ quan
báo chí trở nên gay gắt hơn khi họ tìm cách thu hút độc giả.
Vì sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các cơ quan báo chí và sự tự do hoá của ngành
xuất bản báo chí ở Trung Quốc, đồng thời với các cam kết gia nhập WTO, nhiều cơ quan
báo chí đã được tập hợp lại hình thành nên những tập đoàn báo chí.”[23]
Tập đoàn báo chí đầu tiên của Trung Quốc ra đời vào năm 1996, tức là 5 năm trước
khi Trung Quốc gia nhập WTO (12/2001). Đó là tập đoàn Nhật báo Quảng Châu
(Guangzhou Daily Press Group). Đến thời điểm tháng 8/2003, đã có 41 tập đoàn báo chí ở
Trung Quốc.
3.2.2. Tập đoàn báo chí Thâm Quyến[24]:
Về số lượng ấn phẩm: Tập đoàn báo chí Thâm Quyến có 5 tờ báo (trong đó có một
tờ liên doanh với Hồng Kông), 2 tạp chí (1 về ôtô và 1 về phong cảnh). Tờ báo chính của
tập đoàn ra đời năm 1982, vài năm sau khi thành lập đặc khu Thâm Quyến, lúc đầu là tuần
báo, một năm sau chuyển thành nhật báo bốn trang, rồi nhật báo 28 trang khổ lớn, cá biệt
có ngày lên tới 40 trang. Tuy thuộc đặc khu Thâm Quyến, tờ báo được truyền qua vệ tinh
để in và phát hành cùng ngày tại bốn thành phố lớn nhất Trung Quốc, 98% số địa phương
ở Trung Quốc có mua báo Thâm Quyến.”
Những hoạt động kinh doanh phụ trợ: Ngoài công việc làm báo, tập đoàn có một
tổng công ty kinh doanh phát hành với 700 nhân viên, 100 xe ôtô và một công ty chuyên
kinh doanh địa ốc.
Tác động đến đời sống truyền thông: Theo tài liệu tham khảo mà người viết có
được, ảnh hưởng lớn nhất của mô hình tập đoàn đến đời sống truyền thông là ở chỗ tiềm
lực tài chính của tập đoàn được gia tăng và những người làm báo ở Thâm Quyến có thể tự
chủ được nguồn vốn. Vào thời điểm năm 1998, tập đoàn Thâm Quyến đã có thể xây dựng
một trụ sở 50 tầng, cao 160m, với đầy đủ tiện nghi. Nhà báo Linh Hà mô tả: “câu lạc bộ
của báo với đầy đủ nhà hàng, phòng tập thể dục, phòng cắt tóc, hồ bơi, phòng đánh bi-da,
chơi cờ tướng … dành cho nội bộ và cả khách bên ngoài.” Mức sống và điều kiện tác

21
nghiệp của đội ngũ làm báo cũng được nâng cao, thu nhập trung bình của phóng viên
khoảng 500 USD/tháng, hầu hết được trang bị điện thoại di động, máy ảnh kĩ thuật số, máy
tính cá nhân có nối mạng, 100 phóng viên có ôtô riêng, và tập đoàn còn có một khu nhà ở
tập thể 28 tầng.
Ngoài ra, tập đoàn cũng có lợi thế trong việc thu hút quảng cáo. Năm 1998, doanh
thu quảng cáo của tập đoàn vào khoảng 400 triệu nhân dân tệ (tương đương 50 triệu
USD).
3.2.3. Tập đoàn báo chí Phương Nam:
Ở tỉnh Quảng Châu (Trung Quốc), có 3 tập đoàn: Phương Nam nhật báo, Quảng
Châu nhật báo và Dương Thành buổi chiều. Cũng như phần giới thiệu về tập đoàn báo chí
Thâm Quyến, phần giới thiệu về tập đoàn báo chí Phương Nam (Southern Media Group)
chủ yếu dựa trên tài liệu năm 1998 của nhà báo Linh Hà.
Về số lượng ấn phẩm: Tập đoàn có 5 tờ báo, 1 tờ tạp chí.
Những hoạt động kinh doanh phụ trợ: Vào thời điểm 1998, Chủ tịch tập đoàn Lý
Mạnh Dục cho biết: “Nhà nước chúng tôi không cấm, nhưng theo tôi thấy những lĩnh vực
kinh doanh xa lạ với nghề nghiệp thường ít có hiệu quả.” Bản thân tập đoàn chỉ có 2 xí
nghiệp in và 1 nhà xuất bản sách. Từ đó, có thể phỏng đoán tập đoàn Phương Nam không
tham gia vào các lĩnh vực kinh doanh ngoài báo chí.
Về cơ cấu tổ chức: Tập đoàn có hội đồng quản trị, bên dưới có hai hội đồng: hội
đồng các Tổng biên tập bao gồm các Tổng biên tập chỉ chuyên lo về nội dung của các tờ
báo trực thuộc và hội đồng các giám đốc của các công ty trực thuộc tập đoàn. Các trưởng
ban được quyền lựa chọn phóng viên, nếu phóng viên không được một trưởng ban nào lựa
chọn thì thôi hợp đồng. Ngoài 11 biên tập viên cao cấp tương đương hàm giáo sư và 89
phó biên tập viên cao cấp tương đương phó giáo sư, các cán bộ, phóng viên từ trung cấp
trở xuống chỉ ký hợp đồng hai năm.
Tác động đối với đời sống truyền thông và đời sống kinh tế: Chủ tịch tập đoàn
Phương Nam cho biết ở Trung Quốc, tập đoàn báo chí được cấp phép thành lập dựa trên 3
cơ sở chính: ảnh hưởng của tờ báo, thực lực về kinh tế và thực lực về nhân sự (không chỉ là
đội ngũ phóng viên – NV). Do vậy, khi hình thành tập đoàn, tính chất của báo chí vẫn
không thay đổi, báo chí vẫn là công cụ của Đảng và Nhà nước, sự khác biệt so với trước
khi thành lập chỉ nằm ở cơ chế tổ chức và vận hành, về cơ chế tài chính, phân hối lợi
nhuận và hiệu quả sử dụng tài sản nhà nước.
Kinh nghiệm của tập đoàn báo chí Phương Nam chỉ ra: “Việc hình thành các tập
đoàn cho phép tập hợp được sức mạnh về cơ sở vật chất, tài chính, nhân lực, hợp lý hoá
một số khâu trong quy trình sản xuất để đảng có những phương tiện đủ sức cạnh tranh và
phát triển, nhà nước không những không phải bao cấp mà còn được thu thuế.” Thực tế, tập
đoàn có nghĩa vụ đóng thuế, thuế doanh thu 5,7%, thuế lợi tức 33%, nhưng được để lại
50% phát triển tập đoàn, 50% còn lại đưa vào “quỹ phát triển văn hoá”. Ngoài ra, tập đoàn
được tự chủ về tài chính, để xây dựng trụ sở, trang bị phương tiện làm việc, thưởng cho
cán bộ, phóng viên theo số lượng và chất lượng lao động của từng người.
Đó là sự khái quát ấn tượng nhất về tác động tích cực của việc hình thành tập đoàn
báo chí ở Trung Quốc.
3.2.4. Tập đoàn Bắc Kinh nhật báo[25]:
Tập đoàn Bắc Kinh nhật báo trở thành tập đoàn vào tháng 3 – 2000, thuộc hàng tập
đoàn báo Đảng ở Trung Ương.
Về hoạt động báo chí: Các ấn phẩm của tập đoàn chiếm hơn 60% thị phần báo chí
Bắc Kinh, gồm 9 tờ báo và 3 tờ tạp chí. Trong một ngày, tập đoàn phát hành đến 3 tờ nhật
báo thời sự chính trị: Bắc Kinh nhật báo[26] và Thần báo phát hành buổi sáng, Vãn báo
phát hành buổi chiều.
Bắc Kinh nhật báo cũng sở hữu một nhà xuất bản và một nhà in hiện đại.
Các hoạt động kinh doanh khác: tập đoàn Bắc Kinh nhật báo còn kinh doanh
trong lĩnh vực bất động sản. Hiện tại, tập đoàn sở hữu hai cao ốc, tòa soạn Bắc Kinh nhật

22
báo sử dụng trọn 3 tầng (từ tầng 15 – 17) của một trong hai cao ốc này, còn lại là kinh
doanh khách sạn. Ngoài ra, tập đoàn còn có một trung tâm đào tạo phóng viên 200 phòng
tiện nghi như một khu nghỉ dưỡng cao cấp.
Tác động đối với đời sống truyền thông: hiện chưa tìm thấy tài liệu đề cập đến
mục này, tuy nhiên, có thể thấy tác động sẽ không ít hơn so với các tập đoàn đã giới thiệu
ở những phần trước.
3.2.5. Tập đoàn Văn Hối Tân Dân báo[27]:
Về sự hình thành: Tập đoàn Văn Hối Tân Dân báo là cơ quan ngôn luận của Đảng
Cộng sản Trung Quốc ở TP Thượng Hải, được thành lập vào ngày 25-7-1998, trên cơ sở
hợp nhất hai tờ Văn Hối nhật báo (ra buổi sáng) và Tân Dân vãn báo (1,3 triệu bản, ra buổi
chiều). Cả hai tờ báo nói trên đều có lịch sử phát hành từ lâu đời (60 – 75 năm).
Về hoạt động báo chí: Tuy không có thế bằng các tập đoàn trung ương, tập đoàn
Văn Hối Tân Dân báo sở hữu tới 30 ấn phẩm (buổi sáng, buổi chiều, cuối tuần, bán nguyệt
san và nguyệt san), trong đó có 5 tờ báo ngày (Văn Hối báo, Tân Dân vãn báo, Shanghai
Daily, Oriental Morning Post và Oriental Sport Daily), 6 tờ báo tuần (Báo Văn học,
Wenhui Book Review, Gia đình Thượng Hải, Auto, Thượng Hải thứ tư và The Bund), và 6
đặc san (Xinmin Weekly, Journalism Review, Xinduxie and Writing, Shanghai Scene,
Thượng Hải ngày nay và Mengya). Bên cạnh đó, tập đoàn còn điều hành nhà xuất bản
Wenhui.
Tập đoàn Văn Hối Tân Dân báo có văn phòng đại diện tại 20 tỉnh, thành trong toàn
quốc, trong đó có các TP lớn như Bắc Kinh, Nam Kinh, Quảng Châu, Vũ Hán, Tây An,
Thẩm Quyến, Vân Nam và mở rộng hoạt động ra 10 quốc gia khác. Riêng ở Mỹ và Úc, ấn
phẩm Tân Dân vãn báo (tin buổi chiều) đã có mặt… Hầu hết các ấn phẩm báo in đều có
trang web như là một kênh cung cấp thông tin miễn phí cho độc giả.
Các hoạt động kinh doanh khác: tập đoàn Văn Hối Tân Dân còn kinh doanh bất
động sản (cao ốc văn phòng, nhà hát Shanghai Yueju, trung tâm mĩ thuật ở phố Đông), bán
vé qua mạng (kể cả vé máy bay). Tập đoàn này chủ trương kinh doanh mọi lĩnh vực phù
hợp với điều kiện cho phép và mang lại hiệu quả kinh tế. Việc kinh doanh này không phải
thông qua sự cho phép của cơ quan chủ quản, hội đồng quản trị của tập đoàn có quyền chủ
động tuyệt đối, miễn là hướng tới sự phát triển lớn mạnh của tập đoàn.
Cơ cấu tổ chức: tập đoàn Văn Hối Tân Dân tổ chức theo mô hình công ty “mẹ –
con”. Trong tập đoàn, mỗi ấn phẩm là một sản phẩm độc lập về tổ chức xuất bản và kinh
doanh. Mỗi ấn phẩm có một ban biên tập riêng, tổng biên tập là thành viên trong Hội đồng
quản trị của tập đoàn, chịu trách nhiệm về quan điểm chính trị cũng như hiệu quả kinh
doanh trước Hội đồng quản trị của tập đoàn, tổng biên tập chủ động về tổ chức biên chế,
tuyển người cũng như phương án trả lương.
Tác động đến đời sống truyền thông: Sự sáp nhập này làm cho thực lực của tập
đoàn mạnh hơn, bằng chứng là vào năm 2004, Văn Hối Tân Dân báo được xem là tập đoàn
báo chí kinh doanh thành công nhất trong toàn quốc; còn doanh thu năm 2003 là 2,82 tỉ và
lợi tức bình quân hàng năm khoảng hơn 400 triệu nhân dân tệ (khoảng 50 triệu USD).
Cơ cấu ban bệ của một ấn phẩm thuộc tập đoàn cho thấy tính gọn nhẹ, năng động
mà hiệu quả. Shanghai Daily chỉ có 58 biên tập viên (12 người nước ngoài) nhưng phụ
trách tới 60 trang báo khổ lớn (broadsheet). Doanh thu của các ấn phẩm trong tập đoàn chủ
yếu lấy từ hai nguồn bán báo và quảng cáo, trong đó quảng cáo chiếm tới 70% - 75%.
Một cái hay của các tập đoàn báo chí mà tác giả Nguyễn Đức chú trọng khai thác
là: đội ngũ nhân viên của tập đoàn đều trẻ trung, năng động trên dưới 30 tuổi.
3.2.6. Tập đoàn báo chí Quảng Châu[28]:
Quảng Châu nhật báo chỉ thuộc nhóm báo loại 3 (thuộc Thành uỷ TP Quảng Châu,
tỉnh Quảng Đông), song đây là đơn vị đầu tiên tuyên bố thành lập tập đoàn ở Trung Quốc
(vào năm 1996, trước Văn Hối Tân Dân báo 2 năm (1998) và truớc Bắc Kinh Nhật Báo 4
năm (2000).)
Về hoạt động báo chí: Tập đoàn báo chí Quảng Châu được mệnh danh là “lá cờ

23
đầu” trong lĩnh vực báo in, sở hữu 13 tờ báo, 4 tạp chí, 1 nhà in, 1 nhà xuất bản. Chủ lực
trong hàng ấn phẩm của tập đoàn là tờ Quảng Châu nhật báo (1,65 triệu bản/kì, 40 – 60
trang khổ lớn).
Lực lượng phát hành mạnh với 3.000 nhân viên phát hành, gần 200 xe tải vận
chuyển báo, mỗi ngày lưu chuyển 4 chuyến báo đến các đại lý phát hành tại những thành
phố và các tỉnh thành khác.
Tập đoàn còn có một trung tâm quảng cáo với hàng trăm nhân viên, liên kết với các
công ty quảng cáo chuyên nghiệp trong việc bán sản phẩm và phát triển, mở rộng thị phần.
Hơn 150 chuỗi cửa hàng ở Quảng Châu và những thành phố khác thuộc khu vực duyên hải
đều là khách hàng thân thiết của tập đoàn trong việc đăng ký mua báo dài hạn và mua
quảng cáo, tạo nên nguồn thu chính của tập đoàn. (Doanh thu quảng cáo năm 2003 đạt
1,7062 tỉ nhân dân tệ (hơn 200 triệu USD), đứng đầu về doanh thu quảng cáo trên báo in 8
năm liền.)
Các hoạt động kinh doanh khác: Quảng Châu nhật báo cũng là một tập đoàn kinh
tế đa ngành nghề, gồm có hai khách sạn cao cấp và hàng loạt công ty con.
Về mục tiêu, phương châm của tập đoàn: có thể thấy họ không còn e ngại mâu
thuẫn giữa “cơ chế chủ quản” với sức ép của thị trường. Các nhà lãnh đạo Quảng Châu
nhật báo theo chủ trương luôn nâng cấp và cải tiến, mở rộng thị trường phát hành, nghiên
cứu mô hình báo chí tiến bộ trên thế giới, hoàn thiện những thiết bị kỹ thuật, tiêu chuẩn
quản lý, nhắm đến hiệu quả công việc và lợi nhuận kinh tế…
Rõ ràng, ở Trung Quốc đã có sự thống nhất giữa mong muốn của cơ quan chủ quản
và chủ trương của tập đoàn. Về mặt quan điểm, đã có sự thay đổi to lớn: báo chí cũng là
một loại hàng hoá, dù là hàng hoá đặc biệt, nên phải hướng đến đối tượng sử dụng (bạn
đọc) và phải cạnh tranh thị phần, chiếc “còi” duy nhất là pháp luật.
Tác động đối với đời sống truyền thông: Nhờ tiềm lực tài chính mạnh, tập đoàn
xây dựng một trụ sở hiện đại với câu lạc bộ cho phóng viên chiếm diện tích cao nhất của
tòa nhà, gồm có phòng họp, phòng ăn, phòng giải trí, phòng tập thể dục thể hình, sân
tennis, vườn hoa, thảm cỏ, … phục vụ nhu cầu sinh hoạt, nghỉ mát, thư giãn và dùng làm
nơi tổ chức những khóa đào tạo.
Tập đoàn cũng tuyển dụng được một đội ngũ nhân viên (Quảng Châu nhật báo có
hơn 300 phóng viên và biên tập viên) tuổi đời rất trẻ (từ 27 –28), trình độ tối thiểu là cử
nhân, và thường xuyên tổ chức đào tạo – bồi duỡng chuyên môn dưới hình thức cử người
đi học tập ở nước ngoài hoặc tổ chức các lớp học, mời chuyên gia trong và ngoài nước đến
huấn luyện và trao đổi chuyên môn, nghiệp vụ …
Về ảnh hưởng của việc thành lập tập đoàn lên chất lượng báo chí Trung Quốc,
người viết chưa có điều kiện khảo sát kĩ.

3.2.7. Tập đoàn Shanghai Media & Entertainment Group (SMEG):


Bên cạnh mô hình các tập đoàn báo Đảng hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực báo in
mà giới báo chí Việt Nam có dịp tham quan học hỏi, người viết xin giới thiệu thêm về một
tập đoàn báo chí ở Thượng Hải[29]. Đó là tập đoàn đa loại hình truyền thông Shanghai
Media & Entertainment Group (SMEG).
Giới thiệu tổng quan: SMEG là một trong những tập đoàn truyền thông (media
conglomerate) lớn nhất ở Trung Quốc, được thành lập vào 19/04/2001. Về hoạt động
báo chí: Ngoài lĩnh vực truyền thông truyền thống như TV, radio, báo in và Internet,
SMEG còn phát triển và hoạt động trong những lĩnh vực truyền thông mới như truyền hình
tương tác và truyền hình băng thông rộng, truyền hình di động, truyền hình IP, truyền hình
qua điện thoại di động. Là một tổ hợp chế tác truyền hình và điện ảnh lớn của TRUNG
QUốC, SMEG sở hữu các công cụ tiên tiến và các thành tựu sản xuất mới. Nhiều sê-ri
phim truyền hình và phim điện ảnh của tập đoàn đã giành được các giải thưởng lớn trong
và ngoài nước.
Các hoạt động kinh doanh khác: ngoài truyền thông, các hoạt động kinh doanh

24
khác của SMEG cũng liên quan đến lĩnh vực văn hoá như tổ chức biểu diễn, tổ chức triển
lãm, kinh doanh du lịch và khách sạn.
SMEG sở hữu và quản lý các nguồn tài nguyên giải trí và văn hoá phong phú bao
gồm các đoàn nghệ thuật biểu diễn nổi tiếng. Shanghai Oriental Pearl Group, một công ty
con của SMEG, là công ty văn hoá đầu tiên được niêm yết trên thị trường chứng khoán
trong nước và là 1 trong 50 công ty có tiềm lực phát triển mạnh nhất ở TRUNG QUốC.
Trung tâm Nghệ thuật biểu diễn SME, cũng thuộc về tập đoàn SMEG, là một tổ hợp đa
chức năng hàng đầu trong lĩnh vực quản lý nhà hát, tổ chức biểu diễn và các hoạt động
kinh doanh có liên quan. Công ty con có tính chuyên môn cao này là một trong những đơn
vị có tài chính mạnh nhất, nhờ vào vị thế trên thị trường quốc nội và bề dày kinh nghiệm.
Hoạt động xã hội: SMEG tham gia công tác xã hội bằng cách tổ chức và tài trợ
cho nhiều hoạt động thể thao, giải trí quốc tế, chẳng hạn như Liên hoan Nghệ thuật Quốc tế
Thượng Hải, Liên hoan phim quốc tế Thượng Hải, Liên hoan âm nhạc quốc tế mùa xuân
Thượng Hải. Những sự kiện trọng đại này có tiếng trong và ngoài nước.
Về cơ cấu tổ chức: Tập đoàn SMEG gồm có 9 công ty con:
(1) Shanghai Media Group
(2) Shanghai Film Group
(3) Oriental Pearl Co., Ltd.
(4) SME Performing Arts Center
(5) SMEG Special Events Office
(6) Shanghai Media & Entertainment Industry Co., Ltd.
(7) STR International Holdings Co., Ltd.
(8) Shanghai Film Archives.
(9) SMEG Technology Development Co., Ltd.
Chủ trương của tập đoàn: thể hiện rõ mục tiêu kinh tế của tập đoàn. Dưới đây là
nguyên văn lời phát biểu của lãnh đạo tập đoàn SMEG:
“Thượng Hải, một trung tâm thương mại quốc tế đầy đam mê;
Văn hoá, một sân khấu tinh thần phô diễn những cuộc trình diễn ngoạn mục;
Truyền thông, một lĩnh vực kinh doanh đang nổi lên với đầy ắp sức sống và tiềm năng
SMEG cống hiến nhiệt huyết và lòng trung kiên với những nỗ lực không ngừng.
Thời thế đổi thay, thành phố phát triển, công nghệ cập nhật.
Chỉ có nguồn cảm hứng hướng tới sự hoàn hảo và niềm tin vào thắng lợi của chúng ta là
không bao giờ thay đổi.
Mong đợi sự hợp tác, đôi bên cùng có lợi.
SMEG là đối tác tốt nhất để cùng chia sẻ một tương lai hứa hẹn.”
[53]

3.2.8. Một số kinh nghiệm rút tỉa từ quá trình hình thành và phát triển của các tập
đoàn báo chí Trung Quốc[30]:
Với bề dày 10 năm phát triển, các tập đoàn báo chí ở Trung Quốc để lại cho Việt
Nam nhiều kinh nghiệm quý báu.
Thông qua phần giới thiệu về các tập đoàn báo chí Trung Quốc, so sánh với các
“media conglomerate” trên thế giới, có thể nhận thấy quy mô và phạm vi hoạt động của
phần lớn các tập đoàn còn hạn chế, chủ yếu xoay xung quanh hạt nhân là loại hình báo in,
chưa năng độn trong các loại hình truyền thông khác. Có lẽ đó là do các tập đoàn báo chí ở
Trung Quốc cũng mới chỉ trải qua 10 năm hình thành và phát triển, và cũng do bối cảnh
chính trị - kinh tế ở Trung Quốc vốn không giống với các nước trên thế giới nên họ phát
triển thận trọng, tính toán trong từng bước đi. Đây là kinh nghiệm về mô hình phát triển.
Tác giả Nguyễn Thành Lợi là người đầu tiên chỉ ra những kinh nghiệm về quản lí
hoạt động kinh doanh tập đoàn báo chí của Trung Quốc [22]. Đó là các kinh nghiệm, các
giải pháp xoay quanh 5 vấn đề: tiền vốn; quản lí tài chính; kinh doanh quảng cáo; phát
hành; kinh doanh đa ngành nghề, đa lĩnh vực.

25
Về vấn đề tiền vốn, 2 giải pháp khắc phục tình trạng thiếu hụt là hợp tác với ngân
hàng và mở rộng hợp tác với các doanh nghiệp vừa và lớn trong nước.
Về vấn đề quản lý tài chính, tác giả chỉ ra 5 giải pháp và kết luận: “Như vậy, đầu
tiên phải xây dựng, kiện toàn chế độ quản lý và hoàn thiện quy trình quản lý tài chính của
tập đoàn báo chí cho minh bạch, rõ ràng. Sau đó kiện toàn hệ thống tổ chức kiểm soát bên
trong một cách hiệu quả, chống những hành vi tham nhũng và mạo hiểm trong vận hành
tiền vốn. Cuối cùng phải đảm bảo số liệu thống kê tiền thu chi chân thực, chính xác và
minh bạch. Thông qua việc hoàn thiện hệ thống quản lý tài chính, kịp thời phát hiện các
vấn đề phát sinh để tránh những khe hở trong tài chính.”
Về vấn đề kinh doanh quảng cáo, các tập đoàn báo chí Trung Quốc đã thực hiện
xây dựng có bài bản thị trường quảng cáo; mở rộng phát triển ngành quảng cáo; tìm hiểu
và hợp tác với các phương tiện truyền thông và các tập đoàn báo chí khác; bước vào lĩnh
vực quảng cáo trên báo điện tử[31].
Về vấn đề phát hành, cần chú trọng phát triển hài hoà giữa phát hành qua bưu điện
và phát hành qua mạng lưới công ty; hợp tác với mạng lưới phát hành địa phương; hoàn
thiện mạng lưới phát hành chuyên kinh doanh sách báo.
Về vấn đề kinh doanh đa ngành nghề, đa lĩnh vực, hai giải pháp cho tình trạng làm
ăn kém hiệu quả là điều tra kĩ thị trường, triển khai kinh doanh ở lĩnh vực có lợi nhuận cao,
tính toán giá thành, điều hành nhân công, dự tính lợi nhuận, phân tích đối thủ cạnh tranh,
xác định tập đoàn đang ở trong giai đoạn nào, tránh mù quáng và tuỳ tiện; tận dụng triệt để
ưu thế của tập đoàn báo chí là có nguồn tin, bài phong phú, có khả năng phục vụ thông tin,
có công ty quản lý các vật liệu sản xuất và đội ngũ phát hành hùng hậu.
Tác giả kết luận: “Để thành lập tập đoàn báo chí, phải tìm cách huy động nguồn
vốn hữu hiệu, nâng cao sức cạnh tranh của tờ báo, xây dựng, hoàn thiện cơ cấu quản lí
thích hợp, có định hướng và có khung pháp lý cho việc phát triển tập đoàn báo chí.”
Trên cương vị một nhà quản lý, trong bài viết “Vài suy nghĩ về thí điểm xây dựng
tập đoàn báo chí ở nước ta”[43], tác giả Trần Thế Tuyển, Cục phó Cục Báo chí đã chỉ ra 3
kinh nghiệm về định hướng, tổ chức, quản lý mà người thực hiện đề tài NCKH này đánh
giá là quan trọng.
Thứ nhất, Trung Quốc xác định hoạt động kinh tế là một mục tiêu quan trọng của
các tập đoàn báo chí Trung Quốc và chủ trương xí nghiệp hoá các cơ quan báo chí. Báo chí
kinh doanh tự trang trải, nộp nghĩa vụ cho Nhà nước là một trong những chỉ tiêu quan
trọng của cải cách báo chí ở Trung Quốc hiện nay.
Thứ hai, Đảng Cộng sản Trung Quốc giữ vai trò định hướng phát triển thông tin
thông qua việc quản lí nhân sự. Cán bộ quản lý và hoạt động báo chí trước hết phải quán
triệt và nhất trí cao đường lối của Đảng trên cơ sở Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Mao
Trạch Đông. Tuyển cán bộ phải đạt 4 mục tiêu: cách mạng hoá, trẻ hoá, tri thức hoá và
hiện đại hoá, trong đó cách mạng hoá là quan trọng nhất. Tuy nhiên, điều này có vẻ xa rời
thực tế vì xây dựng đội ngũ nhân viên cốt phải chú trọng đến yếu tố chuyên môn.
Thứ ba, Trung Quốc “bật đèn xanh” cho liên kết giữa các cơ quan báo chí trong
nước và nước ngoài, trong một số lĩnh vực không liên quan đến chính trị. Bộ tuyên truyền
và Tổng nha Báo chí Xuất bản Trung Quốc vừa cho phép tập đoàn báo chí Quang Minh
hợp tác với một công ty của Mĩ thành lập công ty quảng cáo và hợp tác với tập đoàn báo
chí Phương Nam (Quảng Đông) xuất bản một tờ báo thuần tuý kinh doanh mang tên Tân
Kinh.
Theo kinh nghiệm thứ ba này, có thể thấy Trung Quốc rất khôn ngoan trong việc
cho phép các tập đoàn báo chí nước ngoài, vốn đang “ngấp nghé” thị trường quảng cáo
Trung Quốc, giới thiệu nguồn vốn, kĩ năng quản lý, kinh nghiệm hoạt động nghề nghiệp và
điều hành cho Trung Quốc.

3.3. Tập đoàn Singapore Press Holdings (SPH):


Singapore là một trong các quốc gia phát triển hàng đầu ở khu vực Đông Nam Á.

26
Đặc biệt, trong lĩnh vực báo chí – truyền thông, Đảo quốc Sư Tử được xem như là trung
tâm của khu vực Đông Nam Á, nếu không muốn nói là của cả châu Á. Các tập đoàn truyền
thông nước ngoài như BBC, CNBC Asia, CNN, các hãng thông tấn và các tạp chí khác đều
có văn phòng đại diện ở Singapore. SPH là tập đoàn đa truyền thông hàng đầu ở
Singapore, một mô hình rất đáng cho Việt Nam tham khảo.
3.3.1. Sự ra đời của tập đoàn SPH:
Theo một báo cáo về truyền thông Singapore của Chu Yee-ling & Wong Man-yee
(Trung tâm Nghiên cứu Báo chí & Truyền thông, ĐH Hong Kong), tập đoàn SPH hình
thành không theo quy luật phát triển tự nhiên của nền báo chí, mà là từ mệnh lệnh của
chính phủ.
Nói chính xác hơn, vào 20/4/1982, tức là cách nay hơn hai thập niên, Văn phòng
Thủ tướng Chính phủ Singapore ra tuyên bố cải tổ lại các tờ báo tiếng Anh và tiếng Hoa ở
Singapore. Theo đó, hai tờ nhật báo Nanyang Siang Pau và Sin Chew Jit Poh sáp nhập với
nhau thành tờ Lianhe Zaobao, trực thuộc Singapore News and Publications Ltd (SNPL).
Đến năm 1984, SPH mới ra đời trên cơ sở sự sáp nhập của SNPL, Straits Times Press Ltd,
và Times Publishing Berhad.
SPH hoạt động theo luật doanh nghiệp, hoạt động báo chí tuân thủ các quy định của
pháp luật về báo chí và xuất bản. Tuy nhiên, vì hình thành từ mệnh lệnh, SPH luôn bị đặt
vấn đề về sự liên hệ mật thiết với Chính phủ Singapore thông qua cơ chế sở hữu tài chính
của tập đoàn.
Hai tác giả Chu Yee-ling & Wong Man-yee chứng minh sở hữu gián tiếp của Chính
phủ Singapore đối với SPH thông qua tập đoàn đầu tư tài chính Temasek Holdings (100%
sở hữu của chính phủ Singapore) và một số công ty con của tập đoàn này. Ngoài ra, một số
nhân vật thân cận trong chính phủ cũng được “cài” vào các chức vụ quan trọng trong hội
đồng quản trị tập đoàn SPH. Đồng thời, còn có một quy định là những người nắm giữ cổ
phiếu quản trị của SPH phải được Bộ Thông tin – Nghệ thuật chấp thuận.
Các tác giả cũng nhận thấy cơ chế pháp lý luôn đảm bảo quyền lợi “độc tôn” cho
SPH trước sự xâm nhập của truyền thông nước ngoài. Dưới Luật In ấn và Báo chí, không
ai được phép nắm giữ nhiều hơn 5% cổ phần của một công ty báo chí, dù trực tiếp hay gián
tiếp, trừ phi có sự chấp thuận của Bộ Thông tin – Nghệ thuật. Bộ trưởng Bộ Thương mại
và Công nghiệp Singapore George Yeo nói: "Vì truyền thông nội địa căn bản liên quan đến
chuyện của người dân Singapore, chúng tôi không thể nhượng quyền điều khiển cho người
nước ngoài vì nó có thể bị họ thao túng cho những mục đích riêng tư mà chúng tôi không
được biết.” [47] Theo đó, những giới hạn đối với truyền thông nước ngoài chặt chẽ hơn đối
với truyền thông trong nước như không người nước ngoài nào được phép làm giám đốc
của các cơ quan truyền thông, các nhà báo nước ngoài phải xin đổi giấy phép làm việc
thường niên, báo chí nước ngoài không có quyền phát hành, ...

3.3.2. Cơ cấu tổ chức (Organisation Structure):


HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
Administration (Điều hành)
Corporate Development (Phát triển tập đoàn)
Corporate Relations (Các mối quan hệ của tập đoàn)
Finance (Tài chính)
Human Resources (Nhân sự)
Information Technology (Công nghệ thông tin)
Internal Audit (Kiểm toán nội bộ)
Properties (Các tài sản)
Secretariat/Legal (Văn phòng/ Pháp lý)
TỔNG GIÁM ĐỐC
English/Malay Newspapers
The Straits Times/ The Sunday Times

27
The Business Times
The New Paper/ The New Paper on Sunday
Berita Harian/ Berita Minggu
Editorial Services (Bộ phận biên tập)
Chinese Newspapers
Lianhe Zaobao
Lianhe Wanbao
Shin Min Daily News
Friday Weekly
Thumbs Up
Editorial Support (Hỗ trợ biên tập)
Marketing
Classified Advertisement
Display Advertisement
Marketing Planning and Development
Product Development and Branding
Customer Services
Special Projects Unit
Newspaper Services
Circulation
Production
SPH Magazines
Women’s Titles
Non – women’s Titles
Blu Inc
Magazines Incorporated
Tamil Murasu
Tamil Murasu
Lianhe Publishing
Citta Bella
Focus Publishing
You Weekly

3.3.3. Hoạt động báo chí của tập đoàn SPH:


Singapore Press Holdings (SPH) hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực báo chí – xuất
bản.
Về lĩnh vực báo in: Thông qua hệ thống các công ty xuất bản, SPH xuất bản 13 tờ
báo bằng 4 ngôn ngữ chính (Anh, Hoa, Malay, Tamil) và hơn 80 tờ tạp chí (phát hành rộng
rãi trong nước và trên thị trường khu vực). Tờ báo tiếng tăm nhất của SPH là tờ The Strait
Times có lịch sử 160 năm. Thêm vào tờ báo chính là 3 phụ san hàng tuần – Digital Life,
Mind Your Body, và Urban. Cho thế hệ độc giả trẻ, có IN, một phụ trương giáo dục mới,
dành riêng cho lứa tuổi học sinh cấp II – phát hành 500 bản vào ngày thứ 2. Ngoài ra, còn
có YouthInk, một section mới của tờ báo dành cho lứa tuổi từ 18 – 25. Các tờ báo khác
hướng đến từng đối tượng cụ thể.
Kinh doanh tạp chí là thế mạnh của tập đoàn SPH. Các tạp chí của SPH có nhiều
loại, từ các nguyệt san hào nhoáng dành cho phụ nữ như Her World và tạp chí Hoa ngữ
Citta Bella cho đến các ấn phẩm hướng dẫn cách thức làm cha mẹ và cách thức tân trang
nội thất như Young Parents và Home & Décor. Các tựa tạp chí mới xuất hiện của hệ thống
tạp chí SPH là Maxim, Shape, Simply Her, và Icon. Trong chuyển động nhằm gia tăng sức
mạnh tồn tại trên thị trường tạp chí của khu vực, hệ thống tạp chí của SPH (SPH
Magazines) đã mua lại tổ hợp kinh doanh xuất bản và truyền thông Blu Inc và công ty con
của tổ hợp này là Magazine Incorporated vào năm 2004. Tập đoàn Blu Inc xuất bản 40 tờ

28
báo nội bộ và hợp đồng, bao gồm các tờ nổi tiếng như Female và Nuyou.
Tập đoàn sở hữu 40% cổ phần của tập đoàn MediaCorp Press Ltd., đơn vị xuất bản
tờ báo miễn phí Today. Tập đoàn truyền thông SPH (Singapore Press Holdings Ltd.) cũng
dự định sẽ cho ra mắt một tờ báo phát không bằng tiếng Hoa vào sáng ngày 1/6/2006 tới
tại các nhà ga và một số khu vực công cộng khác.
Về lĩnh vực báo trực tuyến: Ngoài kinh doanh xuất bản báo và tạp chí, SPH cung
cấp các dịch vụ qua cổng Internet như tin tức, các tiện ích giao dịch điện tử, thông qua
AsiaOne, trực thuộc bộ phận SPH Internet Business Unit.
Mạng AsiaOne.com (www.asiaone.com) quản lý ấn bản online của 6 tờ nhật báo
chính: The Straits Times Interactive (www.straitstimes.com.sg), The Business Times
Online (www.business-times.com.sg) và Zaobao.com (www.zaobao.com), Electric New
Paper, cyBerita, và Tamil Murasu online, giúp cho độc giả có nhiều sự chọn lựa và dễ dàng
tiếp cận hơn, nhưng phải trả tiền.
Người sử dụng có thể nhận hoặc tìm lại các mẩu tin ngay tại nhà hoặc văn phòng
thông qua kết nối Newslink (www.newslink.asia1.com.sg), NewsTrack, hoặc NewsPost.
Phạm vi hoạt động của SPH trong lĩnh vực báo chí và xuất bản, đặc biệt là mảng
tạp chí, mở rộng ra Trung Quốc, Malaysia, Indonesia, và Thái Lan, thông qua các liên
doanh tại chỗ của các nước này. Chiến lược của SPH là phát triển công ty con SPH
Magazines thành một doanh nghiệp kinh doanh tạp chí hàng đầu khu vực. Mới đây, sự có
mặt của SPH ở Thái Lan càng được củng cố thêm với những khoản đầu tư vào Traffic
Corner Publishing - đơn vị xuất bản nhiều loại ấn phẩm định kì bằng tiếng Thái.
Về lĩnh vực in ấn: trong chu trình sản xuất kinh doanh của SPH, không thể không
đề cập đến vai trò của Trung tâm in ấn toạ lạc ở phía tây Singapore, một trong số những
cơ sở vật chất in ấn thuộc hàng hiện đại và tối tân nhất khu vực. Với tổng diện tích 110.075
km2, Trung tâm in ấn của tập đoàn SPH cho ra đời hơn 1 triệu bản in của các tờ báo thuộc
tập đoàn SPH với chất lượng in ấn tuyệt hảo hằng ngày. Ngoài ra, Trung tâm In Ấn SPH
còn nhận in nhiều ấn bản khu vực của các tờ báo quốc tế như The Asian Wall Street
Journal, International Herald Tribune, Financial Times, Asahi Shimbun, Nihon Keizai
Shimbun.
Về lĩnh vực quảng cáo và phát hành: SPH thống trị thị trường quảng cáo báo in ở
Singapore, thông qua một bộ phận marketing năng động. Ưu thế của SPH trong thị phần
của ngành quảng cáo được xác lập dựa trên sự phối hợp đầu uy lực của các tờ báo nòng cốt
(báo in và báo online) và các ấn phẩm định kỳ. Quảng cáo trên các tạp chí trải rộng ra trên
khắp các thị trường trong khu vực với hơn 70 tờ, đặc biệt là thông qua tờ tạp chí phụ nữ số
1 khu vực – Her World.
SPH cũng có một mạng lưới phát hành hết sức hiệu quả trong và ngoài nước.
3.3.4. Các hoạt động kinh doanh khác của tập đoàn:
SPH không trực tiếp làm, nhưng có sở hữu trong một số doanh nghiệp kinh doanh
các loại hình truyền thông khác với loại hình truyền thông chủ yếu của SPH. Cụ thể, SPH
tiếp tục duy trì sự tồn tại trong lĩnh vực kinh doanh truyền hình miễn phí với việc sở hữu
20% cổ phần của tập đoàn MediaCorp TV Holdings Pte Ltd – vốn điều hành các kênh 5, 8,
U và TV Mobile; điều hành 2 đài phát thanh UFM 100.3 FM (tiếng Hoa) và WKRZ 91.3
FM (tiếng Anh), thông qua công ty UnionWorks (thuộc về liên doanh với Hiệp hội thương
mại quốc gia Singapore (NTUC) mà SPH nắm giữ tới 70%).
SPH tham gia kinh doanh hoạt động quảng cáo ngoài trời. Tập đoàn sở hữu 80% cổ
phiếu của SPH MediaBoxOffice Pte Ltd, mạng lưới công ty truyền thông LED lớn nhất
Singapore với 4 màn hình LED và 400 màn hình plasma và LCD trải rộng khắp đảo quốc.
MBO có khả năng tiếp cận với 13 triệu lượt người xem hàng tháng, là công cụ hướng dẫn
tốt nhất tới các trung tâm mua sắm và các thư viện quốc gia. Ngoài ra, SPH cũng nắm giữ
35% cổ phiếu trong TOM Outdoor Media Group, một công ty quảng cáo ngoài trời hàng
đầu ở Trung Quốc.
Tập đoàn cũng nắm giữ cổ phiếu trong MobileOne (M1), nhà cung cấp dịch vụ viễn

29
thông di động.
Ngoài ra, SPH cũng nắm bắt các cơ hội phát triển trong lĩnh vực bất động sản. Tập
đoàn mua lại 2 trung tâm Paragon và Promenade, sau đó phát triển chúng thành một khu
phức hợp mua sắm và cao ốc thương mại mới với tên gọi Paragon.
Tất cả những hoạt động này thể hiện nỗ lực của SPH trong việc quản lý tiền vốn
theo hướng sinh sôi và trong việc giữ chân các cổ đông.
3.3.5. Về phương châm của tập đoàn SPH (Corporate Philosophy):
SPH xác định nhiệm vụ của mình là: “To inform, educate and entertain” (thông tin,
giáo dục và giải trí).
Các giá trị mà SPH kiên trì theo đuổi:
Tinh thần hợp tác (partnership): sự tương trợ lẫn nhau giữa đội ngũ nhân viên và tập đoàn.
Tinh thần làm việc nhóm (teamwork): làm việc cùng nhau và giúp đỡ nhau cùng tiến đến
thành công.
Tinh thần cầu tiến (innovation): thường xuyên cần tiến triển, bởi vì điều gì là tốt đẹp của
ngày hôm nay chưa chắc là còn nguyên vẹn như thế vào ngày mai.
Trọng dụng nhân tài (meritocracy): làm việc hết mình, vì SPH sẽ nhận ra những đóng góp
và nỗ lực của nhân viên.
Hướng đến khách hàng (Customer Orientation): mang lại cho các khách hàng những gì
tốt đẹp nhất bởi vì sự tồn tại của SPH phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng đối với sản
phẩm.
Hướng đến lợi nhuận: cần làm ra tiền để tiếp tục phát triển, để tưởng thưởng đội ngũ nhân
viên, và để mang lại lợi nhuận cho các cổ đông.
Trách nhiệm xã hội (Corporate Citizenry): SPH có trách nhiệm trong việc chung tay xây
dựng một đất nước tốt đẹp hơn.
Trong brochure giới thiệu về tập đoàn (In Touch), SPH luôn đúc kết như sau: “Với
tập đoàn SPH, mục tiêu chính là củng cố và nâng cao lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là xuất
bản. Để đạt được mục tiêu này, SPH tiếp tục cải tiến các tờ báo từng đoạt nhiều giải
thưởng, cũng như cho ra đời thêm nhiều tờ tạp chí. Ngay cả khi SPH mở rộng hoạt động,
mục tiêu của tập đoàn vẫn trước sau như một – phục vụ cộng đồng ngày một tốt hơn, đem
lại cho họ nhiều ích lợi hơn và chất lượng tốt hơn.”
3.3.6. Các hoạt động công ích của SPH:
Vì báo chí – truyền thông là một lĩnh vực mang tính xã hội rất cao nên bên cạnh
việc hướng đến mục tiêu kinh tế, tập đoàn SPH “không nề hà đóng góp cho cộng đồng, dẫu
trong thời điểm ăn nên làm ra hay những lúc tệ hại”[32] và rất tích cực trong việc thu gom
các giải thưởng tôn vinh. Bởi vì, theo lời của CEO Alan Chan, “Càng ngày, các doanh
nghiệp lớn càng nhận thức đây là một sự đầu tư kinh doanh có chiến thuật – sẽ giúp nâng
cao uy tín của công ty trong lòng công chúng. Đó là một chiến thắng kép cho cả tập đoàn
và cộng đồng. Về phía SPH, chúng tôi thấy mối liên hệ với cộng đồng của chúng tôi là một
cách đáp trả lại tấm tình của cộng đồng. Tôi cũng rất hài lòng vì rất nhiều người trong hàng
ngũ nhân viên của chúng tôi luôn sẵn lòng giúp đỡ những người kém may mắn hơn.”
Kể từ năm 1993, năm nào SPH cũng được Hội đồng nghệ thuật quốc gia tặng danh
xưng Mạnh thường quân ưu tú của Văn hoá – nghệ thuật.
Vào năm 2001, SPH thành lập tổ chức gây quỹ The Straits Times School Pocket
Money Fund, giúp đỡ khoảng 11.000 HSSV. Quỹ Học đường nói trên đã giành được giải
thưởng Sáng kiến Vận động Tài trợ của Trung tâm Từ thiện và Tình Nguyện quốc gia
Singapore vào tháng 11/2004.
Vào năm 2003, SPH thành lập tổ chức phi lợi nhuận Press Foundation of Singapore
(PFS) hỗ trợ việc học tập suốt đời. PFS được đổi tên thành Singapore Press Holdings
Foundation (SPHF) vào tháng 05/2005.
Vào năm 2004, tập đoàn đóng góp hơn 4 triệu đôla cho các sự kiện nghệ thuật, văn
hoá, giáo dục, bảo tồn, thể thao, cũng như quyên góp cho nhiều tổ chức từ thiện. Đặc biệt,
cuối tháng 12/2004, SPH đóng vai trò quan trọng trong việc kêu gọi cộng đồng Singapore

30
cứu trợ các nạn nhân tsunami. Cuộc quyên góp 9 ngày đã mang lại 60 kiện hàng cứu trợ và
đóng góp 8 triệu đôla vào quỹ của Hội Chữ thập đỏ Singapore, trong đó có khoản tiền mặt
200.000 đôla của SPH và một khoản tiền 55.000 đôla khác do đội ngũ nhân viên của tập
đoàn quyên góp.
Từng tờ báo trong tập đoàn cũng đóng vai trò năng động trong các hoạt động xã hội
khác nhau. Chẳng hạn, tờ Tamil Murasu khởi xướng việc lập quỹ tín dụng học tập G
Sarangapany.

3.3.7. Tác động đến đời sống truyền thông:


Tác động tích cực: tập đoàn SPH được thành lập vào năm 1984, ngoài lí do cắt
giảm chi phí, còn có một số lí do khác, trong đó có “để thiết lập những lý tưởng chung cho
các tờ báo xuất bản bằng những ngôn ngữ khác nhau.”[50] Đây là một lí do xác đáng, xâu
kết chặt chẽ các thành viên trong tập đoàn, tăng tính hỗ trợ lẫn nhau, vươn đến một hiệu
ứng truyền thông chung.
Sự ra đời nhiều ấn phẩm báo chí tạo nên sự phong phú, đa dạng cho thị trường
truyền thông Singapore. Đồng thời, các liên kết cho phép tập đoàn tận thu nguồn quảng
cáo. Nếu khách hàng muốn quảng cáo trên báo in, nơi duy nhất có thể tới là SPH.
Biểu tượng của tinh thần chung sức và cũng là biểu hiện của việc phối hợp đồng bộ
trong tất cả các khâu sản xuất – kinh doanh báo chí của SPH là toà nhà News Centre, trụ sở
của SPH, toạ lạc trên khoảng diện tích 54.348 km2 ở Toa Payoh North, chính thức mở cửa
vào tháng 3/2002. Đây là một khu phức hợp công nghệ cao với các hệ thống tối tân. Chính
các lãnh đạo của SPH nhận xét: “SPH News Centre kết hợp nhân viên từ nhiều bộ phận
khác nhau để làm nên mảng truyền thông lớn hơn và làm cho dòng chảy công việc thuận
lợi hơn.”[33] Ý tưởng này nêu bật chức năng của tập đoàn: đoàn kết để sử dụng hiệu quả
các nguồn lực cho phát triển kinh tế.
Cuối cùng, chất lượng của báo chí cũng được nâng cao nhờ tiềm lực tài chính hùng
mạnh của tập đoàn (từ lợi nhuận quảng cáo báo in, lợi nhuận kinh doanh các hoạt động
khác) và nhờ sự trọng đãi đến mức xem “nhân viên là tài sản đáng trân trọng nhất”[34].
SPH có khoảng 1000 phóng viên và 13 văn phòng thường trú ở các thành phố lớn trên thế
giới, đặc biệt là ở khu vực châu Á; tuyển dụng được một đội ngũ 2500 nhân viên làm việc
tại trụ sở chính, lại được “chống lưng” bởi một mạng lưới các cộng tác viên và biên tập
viên giàu kinh nghiệm. Nhờ vậy, các tờ báo của tập đoàn SPH có thể bao quát các tin tức
thế giới, khu vực, và nội địa ở một tầm mức toàn diện, sâu sắc, tường tận, đem lại lợi ích
lớn hơn cho công chúng. Riêng đối với đội ngũ nhân viên, nhờ sự “ăn nên làm ra” của tập
đoàn, điều kiện sống, tác nghiệp, trau dồi nghề nghiệp, thậm chí cả các nhu cầu vui chơi
giải trí của họ cũng được nâng cao.
Tác động tiêu cực: đứng trên quan điểm của giới nghiên cứu – phê bình truyền
thông, hai tác giả Chu Yee-ling & Wong Man-yee cho thấy họ quan ngại về ảnh hưởng của
tính chất độc quyền truyền thông của SPH – một tập đoàn hùng mạnh cả về thế và lực – lên
tự do báo chí ở Singapore, làm hạn chế tính dân chủ của nền báo chí nước này [46].
Tiểu kết:
Ngày nay, các tập đoàn truyền thông có ảnh hưởng rất lớn không chỉ trong phạm vi
các quốc gia, mà còn lan rộng ra khắp các khu vực, thậm chí khắp cả thế giới. Vai trò quan
trọng nhất của các tập đoàn truyền thông chính là ở sự kết hợp hai mục tiêu báo chí và kinh
tế.
Các tập đoàn truyền thông của Mĩ nghiêng về mục tiêu kinh tế, chú trọng khai thác
tối đa lợi nhuận trong mọi lĩnh vực truyền thông và có liên quan đến truyền thông. Do sớm
hình thành, các tập đoàn này tận dụng được ưu thế về tài chính, kinh nghiệm quản lý, … để
vươn ra “thống trị” thị trường truyền thông toàn cầu.
Ở những bước đi đầu tiên, các tập đoàn báo chí của Trung Quốc vừa hồ hởi lại vừa
hết sức thận trọng cân nhắc giữa mục tiêu báo chí và mục tiêu kinh tế. Đặc điểm của các
tập đoàn báo chí Trung Quốc là tham gia năng động vào các hoạt động kinh doanh ngoài

31
báo chí mà chưa chú trọng khai thác hết mọi tiềm năng của thị trường truyền thông. Ra đời
muộn, song các tập đoàn báo chí Trung Quốc cũng có tham vọng toàn cầu và xây dựng
tham vọng đó bằng cách mở rộng hợp tác với các tập đoàn truyền thông nước ngoài.
Với thị trường truyền thông trong nước nhỏ hẹp, lại được sự hậu thuẫn về chính
sách mạnh mẽ của Chính phủ Singapore, tập đoàn SPH nhanh chóng chiếm lĩnh vị trí chủ
chốt. Ưu điểm của tập đoàn SPH là lối kinh doanh bài bản (học tập từ các quốc gia tiên
tiến), thường xuyên cập nhật công nghệ, biết tận dụng lợi thế, khả năng thâm nhập vào tất
cả mọi lĩnh vực truyền thông và liên quan đến truyền thông, khát vọng vươn ra chiếm lĩnh
thị trường khu vực và thế giới. Mô hình SPH phù hợp với các thành phố trẻ, phát triển chủ
động và năng động.

32
Chương 3
CHỦ TRƯƠNG HÌNH THÀNH TẬP ĐOÀN BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM
1. Chủ trương hình thành tập đoàn báo chí ở Việt Nam:
Vấn đề tập đoàn báo chí được đưa ra bàn luận trên báo chí Việt Nam từ khoảng
giữa năm 2004. Công cụ tìm kiếm trên mạng Google cho thấy, tại cuộc Hội thảo về Tình
hình phát triển, quản lý thông tin đại chúng và xuất bản trên địa bàn TPHCM vào ngày
24/6/2004, ông Phan Xuân Biên, Trưởng ban Tư tưởng – Văn hoá Thành Uỷ, đã gợi ý về
định hướng phát triển sự nghiệp báo chí: cần có những tập đoàn báo chí mạnh; một số việc
có thể thuê kênh tư nhân làm, Nhà nước quản lý nội dung. Ông Trần Thế Tuyển, cục phó
Cục Quản lý báo chí, đề nghị TP.HCM nên có chuyên đề về quy hoạch, sắp xếp để hình
thành các tập đoàn báo chí, vì ông cho rằng: “Nước ta chưa có nhưng trên thực tế đã có cơ
quan báo chí thấp thoáng hình thành mô hình này.”[6]
Trước đó, nhân ngày nhà báo Việt Nam 21/6/2004, trong bài trả lời phỏng vấn của
báo Tuổi Trẻ, Thứ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin Đỗ Quý Doãn cho biết thực tế đã tồn tại
mô hình “tổ hợp truyền thông đa lĩnh vực hoạt động như một tập đoàn kinh tế”, mặc dù
Luật báo chí qui định “Cơ quan báo chí là cơ quan thực hiện một loại hình báo chí”. Thứ
trưởng chỉ ra một số trường hợp: báo Nhân Dân hiện có báo ngày, báo tuần, báo tháng và
báo điện tử; Đài truyền hình Việt Nam không chỉ có tạp chí mà còn có hãng phim, công ty
nghe nhìn, các đơn vị hoạt động dịch vụ … Cũng trong buổi phỏng vấn này, ông Đỗ Quý
Doãn đã đề cập đến chuyện “vấn đề kinh tế báo chí cần được xem xét đầy đủ và hoàn thiện
về mặt luật pháp”[40]. Ông Đỗ Quý Doãn dự báo khi đã có những tổ hợp báo chí hùng
mạnh thì những tờ báo èo uột, không tự sống được sẽ tự đào thải.
Sau đó, báo chí chú ý khai thác những thông tin liên quan đến mô hình tập đoàn
báo chí ở Trung Quốc và các nước phương Tây. Đáng chú ý là những tin, bài được đăng tải
trong tháng 8/2004 trên báo Tuổi Trẻ về những động thái “cởi mở” của báo chí Trung
Quốc[35].
Bước sang đầu năm 2005, Bộ Văn hoá – Thông tin đệ trình chính phủ Chiến lược
phát triển thông tin đến năm 2010, trong đó có đoạn: “Thử nghiệm xây dựng tổ hợp xuất
bản, tập đoàn báo chí, kết hợp với các hoạt động kinh doanh, dịch vụ theo quy định của
pháp luật để tạo nguồn thu đầu tư cho hoạt động báo chí.”
Cách đây 6 – 8 năm, vấn đề kinh tế báo chí là một vấn đề khá nhạy cảm, người ta
rất ngại nói đến vấn đề này [8]. Đến nay, những e ngại khi đề cập đến các vấn đề mới mẻ
như kinh tế báo chí và tập đoàn báo chí vẫn còn tồn tại ở một số nơi chậm đổi mới tư duy,
mặc dù Thông báo số 162-TB/TW ra ngày 1-12-2004 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng
đã phê bình về việc chậm tổng kết, rút ra những kết luận cần thiết về kinh tế báo chí.
Khoảng thời gian chuẩn bị cho Đại hội Hội nhà báo Việt Nam (08/2005), báo chí
liên tục đăng tải những suy nghĩ nghiêm túc của báo giới và các cơ quan quản lý về vấn đề
tập đoàn báo chí.
Vấn đề kinh tế báo chí một lần nữa được đặt ra. Tiến sĩ Đào Duy Quát, tổng biên
tập website Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Ban tư tưởng văn hoá trung ương đã đưa ra
quan điểm “gắn kinh tế với báo chí để báo chí phát triển” và “Phải hình thành những tập
đoàn báo chí tự sống, tự phát triển chứ không chờ bao cấp”[28].
Bài viết đáng tham khảo thứ hai là bài trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ của Bộ
trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin Phạm Quang Nghị [41]. Khi ấy, mô hình tập đoàn báo chí
đã được Nhà nước “bật đèn xanh”, song vẫn chưa có tờ báo nào trình đề án “tập đoàn báo
chí”, Bộ Văn hoá – Thông tin vẫn cần có người đi đầu. Bộ Văn hoá – Thông tin tiếp tục
phát triển nhận định hồi năm 2004: thực tế đã có một số cơ quan báo chí hoạt động như là
tập đoàn, chỉ có điều chưa tổ chức lại, chưa xưng danh “tập đoàn báo chí”. Ông Phạm
Quang Nghị tiếp tục dẫn chứng: Đài truyền hình Việt Nam đã có các “công ty con” như
hãng phim, trung tâm dịch vụ quảng cáo, tạp chí truyền hình …; các báo Tuổi Trẻ, Tiền
Phong đã có nhiều ấn phẩm, có cả hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực quảng cáo, phát
hành sách báo, cho thuê văn phòng như các “tổng công ty”. Ông Phạm Quang Nghị cho

33
rằng Bộ Văn hoá – Thông tin đã tổng kết từ thực tiễn và đề xuất Chính phủ mở ra cơ chế
tập đoàn báo chí và “phần việc còn lại là của các cơ quan báo chí”. Về vấn đề tập đoàn báo
chí có được phép hoạt động như một doanh nghiệp hay không, ông Phạm Quang Nghị thừa
nhận cơ quan quản lý vẫn còn lúng túng trong việc định hình các tờ báo tự chủ về tài chính
và có những bộ phận hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo ông, do đặc
thù của hoạt động báo chí, ngành này không nên chỉ tuân theo Luật doanh nghiệp, mà
trước hết phải tuân thủ Luật báo chí, tốt nhất là nên tách bạch các bộ phận hoạt động như
doanh nghiệp.
Cũng trong một cuộc làm việc với lãnh đạo Hội Nhà báo Việt Nam, Trưởng ban Tư
tưởng – Văn hoá Trung ương Nguyễn Khoa Điềm nêu rõ: “Việc xây dựng các tập đoàn
báo chí là cần thiết, bởi đó là yêu cầu khách quan của một nền báo chí phát triển dựa trên
nền tảng của một nền kinh tế thị trường phát triển, công nghiệp và hiện đại. Tuy nhiên báo
chí nước ta là báo chí của Đảng, là công cụ chính trị - tư tưởng của Đảng và Nhà nước xã
hội chủ nghĩa, là món ăn tinh thần của nhân dân, do vậy tập đoàn báo chí cũng phải
hướng theo mục tiêu phấn đấu đó.” [8]
Đến tháng 9/2005, câu hỏi “Bao giờ có tập đoàn báo chí?” được đặt ra, kèm theo đó
là hàng loạt vấn đề như mô hình, quy mô, cơ chế hoạt động, cơ chế quản lý nội dung báo
chí, cơ chế quản lý tài chính báo chí … của các tập đoàn báo chí. Vào thời điểm này, có
thông tin cho rằng báo Hà Nội Mới, cơ quan ngôn luận của Thành ủy Hà Nội và báo Sài
Gòn Giải Phóng, cơ quan ngôn luận của Thành ủy TP.HCM đang được lãnh đạo 2 thành
phố cho phép lập dự án xây dựng Tập đoàn báo chí [8]. Thậm chí, ngày 22 – 9 – 2005, tại
cuộc họp mặt với Tổng Biên tập một số báo Đảng khu vực phía Nam, Ủy viên Ban Thường
vụ Hội Nhà báo Việt Nam, Tổng Biên tập báo Hà Nội Mới Nguyễn Xuân Trình đã phác
họa đôi nét chân dung về một tập đoàn báo chí của nhật báo Hà Nội Mới trong tương lai
không xa.
Tất cả những động thái “cởi mở” nói trên được xem là sự chuẩn bị cho sự kiện
ngày 30/9/2005, Bộ Văn hoá – Thông tin họp báo về việc Chính phủ đã ban hành Quyết
định 219, phê duyệt Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010, trong đó có việc đồng ý
thí điểm mô hình tập đoàn báo chí tại Việt Nam [4]. Tuy một số tờ báo ở TP.HCM đã
manh nha hoạt động theo mô hình này, như Saigon Times Group, song tính đến thời điểm
đó, việc xây dựng đề án và định ra tiêu chí cụ thể cho mô hình tập đoàn báo chí hầu như
chưa có.
Liền ngay sau đó, thứ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin đã trả lời chi tiết trên tờ Việt
NamExpress xoay xung quanh vấn đề thành lập các tập đoàn báo chí [1].
Về mặt thời điểm, ông Doãn khẳng định mô hình tập đoàn báo chí đang là xu
hướng phát triển ở nhiều nước trên thế giới, ngay cả ở châu Á, mặt khác, vào thời điểm
hiện nay, báo chí Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc và thực tế cũng đang manh nha
hình thành các tập đoàn báo chí.
Về mô hình, trước mắt, theo chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010, sẽ thử
nghiệm xây dựng các tổ hợp xuất bản, tập đoàn báo chí có các hoạt động kinh doanh, dịch
vụ theo quy định pháp luật tạo nguồn thu cho hoạt động báo chí. Còn theo phác thảo của
ông Doãn, tập đoàn phải có hạt nhân là một cơ quan báo chí (báo in, truyền hình, phát
thanh, Internet), làm ra nhiều ấn phẩm báo chí, bên cạnh đó là những hoạt động bổ trợ
phục vụ phát triển báo chí, nhưng không phải là phép cộng cơ học các toà báo. Phác thảo
này được đưa ra sau khi Bộ Văn hoá – Thông tin đã có tham khảo một số mô hình tập đoàn
báo chí trên thế giới như Thuỵ Điển, Nhật Bản, Trung Quốc… Đưa ra phác thảo này, ông
Doãn cho thấy “chưa có cơ quan báo chí nào ở Việt Nam có đầy đủ thực lực và cơ cấu
thích hợp để hình thành tập đoàn thực sự”. Tuy nhiên, ngay cả hai điều cơ bản nhất là định
nghĩa và tiêu chí thành lập tập đoàn báo chí ở Việt Nam Bộ Văn hoá – Thông tin vẫn chưa
thể đưa ra được. Ông Doãn chỉ có thể đưa ra một nguyên tắc “không áp dụng rập khuôn”
mô hình của bất kì nước nào do các khác biệt về thể chế chính trị, điều kiện kinh tế xã hội,
dân trí; và gợi mở thêm một số vấn đề: ở Việt Nam, chủ tịch tập đoàn có quyền bổ nhiệm

34
Tổng Biên Tập hay không, các tổ chức trong tập đoàn sẽ hoạt động như thế nào, làm sao
giải được các “bài toán” về tính chuyên nghiệp trong quản lý của các toà soạn và trong tác
nghiệp của các nhà báo, về điều kiện cơ sở vật chất của các tờ báo, …
Về hoạt động tài chính, ông Doãn trưng ra mô hình của các tập đoàn báo chí nước
ngoài: tự chủ về mặt tài chính, tự trang trải kinh phí hoạt động, đóng góp rất lớn cho ngân
sách nhà nước (chỉ sau ngành viễn thông), và khẳng định chỉ các tờ báo mạnh mới nên
thành lập tập đoàn.
Về giải pháp thúc đẩy sự phát triển xu hướng hình thành tập đoàn báo chí, điều
đơn giản nhất và cũng hiện thực nhất mà Chính phủ nghĩ tới là thành lập một trường báo
chí quốc gia nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ hoạt động báo chí. Tuy
nhiên, điều cần trao đổi lại ở đây là: không nên chỉ đào tạo đội ngũ viết báo (điều này các
trường báo chí đã làm nhưng hiệu quả chưa cao), mà để phù hợp với tình hình mới, quan
trọng nhất là phải đào tạo đội ngũ người làm báo và đội ngũ quản lý báo chí (quản lý phải
theo kịp thực tiễn chứ không phải quản lý không được thì cấm).
Với tất cả sự thận trọng, các câu hỏi xoay xung quanh “tập đoàn báo chí” lần lượt
được Bộ Văn hoá – Thông tin và những người có quan tâm đặt ra và chờ lời giải đáp cụ thể
từ phía các cơ quan báo chí lớn, đủ thế và lực trong nước .
2. Bước chuẩn bị của các tờ báo có triển vọng thành lập tập đoàn báo chí:
Kể từ khi có quyết định 219 về chủ trương hình thành tập đoàn báo chí, theo nhận
xét của thạc sĩ Nguyễn Lê Hoàn (Viet Nam Net), có hai động thái từ phía báo giới: “Ngoài
Bắc bàn tán rầm rộ, trong Nam âm thầm làm”. Khi mọi thứ còn mơ hồ, không ai dám
mạnh dạn tuyên bố, khẳng định tương lai của mình.
Trong phần viết dưới đây, người thực hiện đề tài NCKH “Tìm hiểu một số tập đoàn
báo chí trên thế giới và chủ trương hình thành tập đoàn báo chí ở Việt Nam” giới thiệu một
số ý kiến của những người đại diện các cơ quan báo chí, các nhà báo, và một số cá nhân
khác.
2.1. Tiền Phong[36]:
Hiện nay, Tiền Phong là một trong những tờ báo có nhiều ấn phẩm nhất với 6 đầu
báo (Tiền Phong ngày, Tiền Phong chủ nhật, Tiền Phong cuối tháng, Tiền Phong giữa
tháng, Người đẹp Việt Nam, Mỹ phẩm, Tri thức trẻ) và có website
www.tienphongonline.com. Ấn phẩm của Tiền Phong (đặc biệt là các ấn phẩm phụ) đạt
được tỉ lệ phát hành khá cao.
Từ 5 năm trước đây, Tiền Phong đã bước chuẩn bị cho việc trở thành một tập đoàn
báo chí, với việc định ra một chiến lược phát triển phù hợp với tiêu chí của tờ báo. Trả lời
phỏng vấn trên tạp chí Nghề Báo (số 21, tháng 7/2004), tổng biên tập Dương Xuân Nam đã
khẳng định con đường tất yếu của sự phát triển là hiện đại hoá báo chí: “Có nghĩa, phải trở
thành một tập đoàn báo chí thực sự chứ không chỉ đơn thuần làm báo, sống bằng viết báo,
tái đầu tư bằng tiền bán báo.”[13] Theo chiến lược này, song song với việc gia tăng ấn
phẩm, báo Tiền Phong thành lập công ty cổ phần Tiền Phong chuyên lo công tác quảng cáo
– phát hành, dẫn đến tổng doanh thu của cả hai hoạt động kinh tế và báo chí hàng năm đạt
không dưới 150 tỷ đồng. Công ty Tiền Phong không những là chỗ dựa kinh tế tài chính cho
Tiền Phong, mà còn giúp cho việc phân tách rạch ròi giữa khâu nội dung và khâu “chạy
quảng cáo” của phóng viên, hạn chế khuynh hướng “lá cải”, “bán báo”. Tờ báo cũng có đủ
điều kiện để mời những cây bút có nghề trong làng báo, đào tạo tại chỗ và gửi phóng viên
đi học nước ngoài để nâng cao trình độ làm báo, thực hiện cơ chế thu nhập và thưởng phạt
nghiêm minh …
Bên cạnh đó, Tiền Phong còn tổ chức những hoạt động xã hội mang tầm quốc gia
như các cuộc thi Hoa hậu, Siêu cúp bóng đá quốc gia …, nhằm mục đích quảng bá thương
hiệu tờ báo.
Qua nghiên cứu một số tập đoàn báo chí trên thế giới, đặc biệt là các tập đoàn báo
chí Trung Quốc, có thể thấy báo Tiền Phong gần như đã thực hiện đúng các bước đi để trở
thành tập đoàn báo chí. Có điều, phạm vi hoạt động kinh tế và doanh thu của tờ báo còn

35
hạn chế nên chưa thể gọi Tiền Phong là một tập đoàn báo chí, dẫu chỉ là ở quy mô nhỏ như
tập đoàn báo chí Thẩm Quyến của Trung Quốc 8 năm trước đây (1998).
Khi có quyết định 219, Tiền Phong lại dành cho Tạp chí Nghề Báo một cuộc đàm
luận về “danh phận” tập đoàn báo chí. Tổng biên tập Dương Xuân Nam cho rằng “Để nên
danh phận, phải hội đủ thế và lực!” Để chuẩn bị cho sự ra đời của tập đoàn báo chí, ông
cho rằng cần chuẩn bị 3 thực tiễn sau đây:
(1) Về phía Nhà nước: cần có cơ chế, chính sách, sự hỗ trợ cụ thể trong điều kiện cụ thể
của Việt Nam.
Cụ thể hơn, cần có cơ chế để các tờ báo mạnh thâu nạp các tờ báo không làm ăn được,
“nuôi họ và làm hay lên” [12]. Điều đó có nghĩa là Nhà nước phải tiến tới không bao cấp
báo chí, cho ra đời quy chế sáp nhập các tờ báo. Bên cạnh việc sáng lập, việc sáp nhập và
thậm chí mua lại các tờ báo là những bước đi tất yếu để hình thành các tập đoàn báo chí
trên thế giới. Mặt khác, cũng cần có cơ chế quản lý thông thoáng tương đối, nên giao
quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật cho những người đứng đầu cơ quan
báo chí[37].
Đối với vấn đề hỗ trợ, cần hỗ trợ thông qua việc trợ giá giấy in báo, và việc miễn, giảm
thuế, bởi hiện thời, các tờ báo có quy mô hoạt động rộng như Tiền Phong phải gánh 4- 5
loại thuế, từ thuế doanh nghiệp, thuế vốn, thuế đầu tư cho đến thuế thu nhập … Theo Tổng
biên tập báo Tiền Phong, đặt vấn đề hỗ trợ không mâu thuẫn với yêu cầu “tự thân vận
động”, bởi đó là hỗ trợ cần thiết trong 10 – 20 năm đầu hình thành tập đoàn.
(2) Về vị thế của tờ báo: để trở thành tập đoàn, tờ báo phải có uy tín chính trị, đặt ra được
những vấn đề lớn của xã hội và thời đại.
(3) Về lực của tờ báo: tờ báo phải có số phát hành lớn, có nhiều ấn phẩm (6 – 7 ấn phẩm
trở lên), đội ngũ làm báo chuyên nghiệp, có công ty, xí nghiệp riêng, có trụ sở …
Tính đến cuối năm 2005, công tác chuẩn bị về thế và lực của Tiền Phong đã tiến
thêm một bước. Về thế, tờ báo chú trọng đầu tư cải tiến hình thức và nội dung nhằm mở
rộng đối tượng độc giả; mở mang các hoạt động xã hội bằng cách thành lập thêm các quỹ
từ thiện. Về lực, ngoài Công ty Tiền Phong, Tiền Phong tăng cường hội nhập thương
trường, chủ động phát triển kinh tế báo chí bằng cách mở thêm một số văn phòng giới
thiệu việc làm, du học, các nhà sách … Dự định trong năm 2006, tức sau khi có chủ trương
hình thành tập đoàn báo chí của chính phủ, của báo Tiền Phong là đầu tư về trụ sở tờ báo,
về đào tạo phóng viên, mở rộng các điểm in mới, xây dựng nhà sách quy mô lớn nhất miền
Bắc, …
Phát biểu của người đứng đầu báo Tiền Phong và những động thái của tờ báo này
tỏ rõ quyết tâm và sự tự tin trong ý định vươn lên thành lập tập đoàn báo chí. Vấn đề của
Tiền Phong là ở sự cho phép của Nhà nước, không chỉ cho phép về danh nghĩa mà còn cho
phép thông qua việc định ra các cơ chế, chính sách phù hợp.

2.2. VietNamNet[38]:
Xuất thân là một website dịch vụ cung cấp tin tức tiếng Việt (12.1997 – www.Việt
Namn.Việt Nam), tờ báo điện tử VietNamNet (1.2003 – www.vietnamnet.Việt Nam) được
xem là “hiện tượng báo chí” trong vài năm gần đây.
Tuy không có “thế” về chính trị, song VietNamNet lại có thế “sinh ra” từ một công
ty thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam – Bộ Bưu chính Viễn thông, đơn vị
thành viên tập đoàn Bưu chính Viễn Thông (Công ty Phần mềm và Truyền thông VASC),
nghĩa là có khả năng gắn kết các hoạt động truyền thông và viễn thông. Đây cũng là một
hướng phát triển lên tập đoàn từng có tiền lệ trên thế giới (tập đoàn Shin Corporation của
Thái Lan cũng phát triển từ ngành viễn thông sang). Chính vì thấy được thế mạnh của
mình, thay vì đề cập trực tiếp đến việc trở thành một tập đoàn báo chí (truyền thông), ông
Nguyễn Anh Tuấn – Tổng Biên Tập Báo điện tử VietNamNet chỉ đưa ra định hướng: “Xây
dựng VietnamNet thành công ty truyền thông đa phương tiện, đa loại hình báo chí.” Thực

36
chất, nếu làm được điều này, tức là mặc nhiên đã trở thành một tập đoàn truyền thông. Là
một người hiểu rõ thế nào là một tập đoàn truyền thông, ông Nguyễn Anh Tuấn nói: “Hai
từ “tập đoàn” nghe có vẻ to tát, nhưng nếu hiểu là “doanh nghiệp truyền thông, có nhiều
loại hình báo chí, hoạt động trên cơ sở tự hạch toán, không sống dựa vào bao cấp của nhà
nước” thì sẽ hợp lí hơn”.
Về lực, VietNamNet có báo điện tử VietNamNet tiếng Việt, VietNamNet tiếng
Anh, VietNamNet T.V, Người Viễn Xứ, Netmode, Giai Điệu Xanh, E-Chip và một công ty
mạnh về tài chính là VASC. (Cách đây vài năm, VietNamNet có ý định ra tờ nhật báo
VietNamNet nhưng chưa đủ nguồn lực, không hẳn là vì thiếu hụt tài chính). Hiện nay, tuy
hệ thống báo điện tử của VietNamNet Group vẫn chưa sinh lợi trực tiếp và mỗi năm
VASC vẫn phải bù lỗ vài tỷ, nhưng tương lai hứa hẹn của báo điện tử đang đến rất gần.
Ngoài ra, VietNamNet cũng có một số hoạt động xã hội gây tiếng vang trong và ngoài
nước, nổi bật là hoạt động “Vinh danh đất Việt” và website liên kết báo chí khu vực
ASEAN.
Như vậy, đứng trước Quyết định 219, về lý thuyết, tờ báo điện tử này được xem là
có khả năng chuyển mình thành một tập đoàn truyền thông.
Theo Tổng biên tập Báo điện tử VietNamNet, hiện tại, tờ báo này đang “chuẩn bị con
người, cập nhật thông tin về thị trường truyền thông, nghiên cứu, tìm hiểu mô hình của các
tập đoàn truyền thông lớn trên thế giới, đặc biệt là chuẩn bị chiến lược cho doanh nghiệp
của mình để không bỏ lỡ cơ hội phát triển.” [30] Mục tiêu mà VietNamNet hướng đến
trước mắt là trở thành một công ty truyền thông đa phương tiện, trên cơ sở ứng dụng những
công nghệ thông tin, viễn thông, truyền thông thế hệ mới nhằm đa dạng hoá các sản phẩm,
cung cấp cho bạn đọc ngày càng nhiều thông tin, kiến thức bổ ích. Hướng đi của
VietNamNet là một hướng đi thận trọng, khôn ngoan trong bối cảnh báo chí – truyền thông
Việt Nam đang có nhiều biến động, cũng là một hướng đi bài bản học tập từ các tập đoàn
truyền thông nước ngoài. Điều đó thể hiện ngay từ trong cách phát ngôn của Tổng biên tập
Nguyễn Anh Tuấn trước báo chí: “Tôi có 2 khát vọng lớn: xây dựng VietNamNet thành
công ty truyền thông đa phương tiện, đa loại hình báo chí có uy tín trong nước và quốc tế,
được bạn bè đồng nghiệp trong và ngoài nước trân trọng. Khát vọng thứ hai là thấy mọi
cán bộ, nhân viên VietNamNet hạnh phúc, thành đạt.”
Góp ý quan trọng của VietNamNet trong vấn đề xây dựng tập đoàn báo chí ở Việt
Nam chính là: ngoài thế và lực (điều kiện cần), tập thể cơ quan báo chí còn phải có ý
muốn, khát vọng thành lập tập đoàn (điều kiện đủ). Ứng dụng vào thực tế hiện nay, có thể
thấy yêu cầu này rất có giá trị. Ngoài ra, Tổng biên tập Nguyễn Anh Tuấn cũng nhấn mạnh
đến vai trò của người lãnh đạo cơ quan báo chí: phải có tầm nhìn, phải có sự hiểu biết về
thị trường truyền thông quốc tế, có mối quan hệ với các tập đoàn báo chí trên thế giới, có
chiến lược đúng, độc đáo, tạo sự khác biệt và lợi thế cạnh tranh trên thị trường trong nước
cũng như quốc tế.
Ông Nguyễn Anh Tuấn cho rằng lược phát triển thông tin đến năm 2010 rất phù hợp với
xu hướng phát triển của truyền thông. Cũng như Tiền Phong, để bảo đảm lộ trình hình
thành một tập đoàn báo chí, VietNamNet đưa ra một số đề xuất đối với phía Nhà nước:
(1) Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Bộ Văn hoá Thông tin, Bộ Bưu chính Viễn thông,
và Tập đoàn Bưu chính Viễn thông tạo điều kiện về các thủ tục pháp lý
(2) Nhà nước nên có quan niệm mới: xem truyền thông là một ngành kinh tế [31], cơ quan
báo chí là một doanh nghiệp [30], và như vậy, đã là cơ quan báo chí thì được phát triển đa
loại hình báo chí, miễn là tự chủ về tài chính và hoạt động hiệu quả, nên bỏ cơ chế xin –
cho.
2.3. Thanh Niên[39]:
Thanh Niên là tờ báo thuộc về Hội Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam, nên cũng
được xem là một tờ báo có “thế” lên tập đoàn báo chí. Trong bài viết “Tờ báo là diễn đàn
tin cậy của tuổi trẻ, là vũ khí tư tưởng tin cậy của đoàn” đăng trên báo Thanh Niên, ông

37
Đào Ngọc Dung, Bí thư thứ nhất T.Ư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, đánh giá: “Điều kiện cơ
sở vật chất và phương tiện hoạt động của báo ngày càng hiện đại hơn, có thể đáp ứng cho
quá trình cải tiến nâng cao chất lượng về nội dung và kỹ thuật trình bày, phù hợp với tiến
trình đổi mới và phát triển của làng báo nước ta. Báo Thanh Niên cũng đang mạnh dạn
từng bước tiến tới xây dựng một tập đoàn báo chí mạnh.”
Về lực, hiện tại Thanh Niên có các ấn phẩm: Thanh Niên ngày, Thanh Niên Chủ
nhật, Thanh Niên điện tử (bản tiếng Anh và bản tiếng Việt), Thanh Niên Tuần san. Thanh
Niên là một tờ báo có lượng độc giả đông đảo, số phát hành tương đối cao. Theo tổng kết
của Thanh Niên, báo có vài triệu bản in mỗi tuần, có 1 triệu rưỡi người truy cập trang
Thanh Niên điện tử tiếng Việt, 30.000 người truy cập trang Thanh Niên điện tử tiếng Anh
hàng ngày. Đây cũng là một trong số những tờ báo tự chủ về tài chính sớm nhất, biết cách
thu hút quảng cáo. Các hoạt động xã hội của tờ báo gây được tiếng vang trong và ngoài
nước, nổi bật là chương trình Duyên Dáng Việt Nam (đã tổ chức được 15 lần) và giải U.21
báo Thanh Niên.
Nhân dịp kỉ niệm 20 năm (3/1/1986 – 3/1/2006), Tổng biên tập báo Thanh Niên
phát biểu: “Thanh Niên phải có hàng triệu bản in trong nay mai, và theo chủ trương của
Đảng và Nhà Nước, Thanh Niên phải trở thành tập đoàn báo chí mạnh trong khu vực, với
xưởng phim, công ty cổ phần kinh tế, với nhiều sản phẩm báo chí, cùng những phát triển
trong lĩnh vực in ấn và truyền hình. Chương trình Duyên Dáng Việt Nam phải tạo ảnh
hưởng với quốc tế và sẽ trở thành thương hiệu lớn hơn nữa trong lĩnh vực này. U.21 tiếp
tục là sân chơi lớn, góp phần đào tạo nhiều tuyển thủ trẻ hơn, và với chất lượng cao hơn,
để bóng đá Việt Nam có vị trí xứng đáng hơn trong khu vực và thế giới.”[5]
Tính đến thời điểm hiện tại, báo Thanh Niên có thế, có khát vọng, song tiềm lực tài
chính còn quá mỏng để trở thành một tập đoàn báo chí. Chính vì vậy, khâu chuẩn bị của tờ
báo này phải mất rất nhiều thời gian.
Báo Thanh Niên không phúc đáp thư mời phỏng vấn của người thực hiện đề tài
nghiên cứu khoa học[40], liên quan đến kế hoạch cụ thể của tờ báo trong việc trở thành
một tập đoàn báo chí như đã tuyên bố .
2.4. Sài Gòn Giải Phóng:
Báo Sài Gòn Giải Phóng không phúc đáp chính thức thư mời phỏng vấn của người
thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, thông qua tìm hiểu các diễn biến đăng tải
trên báo Sài Gòn Giải Phóng và trao đổi với ông Nguyễn Đức Quang, Trưởng ban Chính
trị, nguyên Tổng thư ký toà soạn báo Sài Gòn Giải Phóng, người viết đã khái quát được
một số vấn đề.
Trước khi có quyết định 219, Sài Gòn Giải Phóng đã quan tâm tìm hiểu mô hình
tập đoàn báo chí ở Trung Quốc và đã có 3 kỳ báo đề cập đến mô hình này. Đây là cách tờ
báo thể hiện rõ ý chí muốn trở thành một tập đoàn báo chí của mình.
Về thế, tờ báo là cơ quan ngôn luận của Đảng bộ Đảng Cộng sản TP.HCM. Từ đầu
năm 2005, Bí thư Thành Uỷ Nguyễn Minh Triết đã nhiều lần đến thăm và đốc thúc Sài
Gòn Giải Phóng trình phương án thành lập tập đoàn. Trong chuyến thăm vào dịp Tết Bính
Tuất, đề cập đến chiến lược phát triển tờ báo Đảng thành tập đoàn báo chí, đồng chí Bí thư
Thành Uỷ Nguyễn Minh Triết đã “đề nghị các sở ban ngành của TP cần hỗ trợ, tạo mọi
điều kiện để Báo SGGP triển khai thực hiện các dự án phát triển - trước mắt là trụ sở báo,
nhà in và một số ấn bản báo đang xúc tiến xuất bản mới.”[24] Ông Nguyễn Minh Triết chỉ
đưa ra một yêu cầu duy nhất vào thời điểm tháng 5/2005, đó là báo Sài Gòn Giải Phóng
phải giữ vững tính định hướng và tính truyền thống, tính nghiêm túc, tính đúng đắn, tính
chiến đấu và chất lượng thông tin [7].
Về lực, tờ báo có số phát hành khá với 5 ấn phẩm: SGGP hàng ngày, SGGP Thứ
Bảy, SGGP Thể thao, SGGP Điện tử, SGGP Hoa Văn, đầu tư mạnh vào chất lượng đội
ngũ (viết báo, quảng cáo, phát hành), cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị thông tin. Đây
cũng là một trong số những tờ báo của cả nước tự hạch toán kinh doanh và kinh doanh có
hiệu quả (dù thực lãi chưa nhiều). Cũng như nhiều tờ báo, Sài Gòn Giải Phóng có nhiều

38
hoạt động xã hội có ý nghĩa, được dư luận quan tâm, nổi bật với các hoạt động từ thiện và
giáo dục [7].
Như vậy, đối với báo Sài Gòn Giải Phóng, thế đã có nhưng lực thì còn yếu. Chính
vì lực yếu mà lại có tham vọng “vươn mình lên ngang tầm các tờ báo trong khu vực và
quốc tế về nghiệp vụ và kỹ thuật, có thể vững vàng vào thế kỷ 21 với tư cách là một tập
đoàn báo Đảng vững mạnh trong tương lai”, khâu chuẩn bị của báo SGGP lại càng khẩn
trương. Báo SGGP hướng tới mở rộng hoạt động bằng cách “đồng loạt triển khai hàng
chục dự án, với mức đầu tư hàng chục tỷ đồng” [7] Trong nửa sau năm 2005, Sài Gòn Giải
Phóng xúc tiến đề án xin tăng thêm các ấn phẩm và đến đầu năm 2006, tờ báo đã nắm
trong tay quyết định ra thêm hai ấn phẩm mới. Ngoài ra, tờ báo cũng lập đề án mở rộng
sang các lĩnh vực hoạt động kinh doanh khác (trung tâm chế tác điện ảnh, trung tâm sách,
trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ).
Cũng như Tiền Phong và VietNamNet, SGGP đề xuất đối sự hỗ trợ của nhà nước
trên hai phương diện:
(1) Cần sự lãnh đạo chặt chẽ của Thành ủy TP Hồ Chí Minh, của lãnh đạo Đảng và Nhà
nước.
(2) Cần được sự tháo gỡ cơ chế của các Sở, Ban, Ngành.
So với các tờ báo khác, SGGP bắt đầu chuẩn bị công khai cho Quyết Định 219 sớm
nhất (trước 1 năm). Tuy nhiên, trong một cuộc trao đổi trên tư cách cá nhân, ông Nguyễn
Đức Quang, Trưởng ban Chính Trị Báo SGGP, người đã có quá trình theo dõi công việc
chuẩn bị thành lập tập đoàn báo chí, cho biết báo SGGP vẫn còn nhiều lúng túng, chưa
định ra được mô hình tập đoàn báo chí cụ thể. Ông Quang nhấn mạnh: “Về ý chí, ý muốn
thì có”. Ông Quang đưa ra 2 góp ý:
(1) Tờ báo phải tự chủ được về kinh tế mới nên nhắm đến mục tiêu thành lập tập đoàn. Vì
nói đến tập đoàn là nói đến kinh tế, nên phải dùng lực kinh tế phù hợp với nhu cầu nội tại
chứ không nên dùng quyết định duy ý chí.
(2) Việt Nam không nên chọn theo một mô hình tập đoàn báo chí nào, mà tốt nhất là tự
mình xây dựng nên một mô hình phù hợp. Báo SGGP không có ý định học theo mô hình
tập đoàn báo chí của Trung Quốc, dù đã từng sang Trung Quốc tham quan mô hình này.
Trước mắt, SGGP nhắm tới việc làm thế nào để các ấn phẩm sinh lợi ở mức cao nhất.

2.5. Saigon Times Group:


Bộ Văn hoá – Thông tin đánh giá Saigon Times Group là một trong những cơ quan
báo chí “đã manh nha hoạt động theo mô hình tập đoàn”[1], và lấy cơ quan này làm một
trong những căn cứ thực tế khi soạn thảo chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010
[41].
Saigon Times Group là tên gọi chung của 1 nhóm gồm 2 tờ báo tiếng Việt (Thời
báo Kinh tế Sài Gòn; Thời báo Vi tính Sài Gòn); 2 tờ báo tiếng Anh (Saigon Times
Weekly; Saigon Times Daily); 2 tờ phụ trương Địa ốc và Chào; 2 tổ chức phi lợi nhuận là
Saigon Times Club và Saigon Times Foundation.
Vì danh xưng “group”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn gặp nhiều “trắc trở”. Từ đó, có
thể thấy Saigon Times Group không mạnh về “thế”, dù Thời báo Kinh tế Sài Gòn (ấn
phẩm chính) ra đời theo chủ trương của các vị lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh [20].
Về lực, Saigon Times Group sớm tự chủ về tài chính, thông qua doanh số phát hành
và quảng cáo. Ngoài ra, tờ báo có thêm nguồn thu từ nhà hàng Blue Ginger, tủ sách “Kinh
tế và Phát triển”, ... Số lượng ấn phẩm của Saigon Times Group tuy nhiều nhưng số phát
hành chỉ ở mức tương đối, thậm chí Saigon Times Group vẫn phải bù lỗ cho tờ Saigon
Times Daily. Các hoạt động xã hội của Saigon Times Group nhắm đến mục tiêu hỗ trợ cho
các doanh nghiệp trong nước.
Thế và lực của Saigon Times Group đều không bằng một số cơ quan báo chí khác.
Cái quý giá mà Saigon Times Group có chính là kinh nghiệm tổ chức, quản lý bài bản.
Trao đổi với người thực hiện đề tài, ông Tổng Biên Tập Võ Như Lanh, người đã

39
sớm tìm hiểu về các tập đoàn báo chí trên thế giới, cho biết Saigon Times Group “bất ngờ”
khi được trở thành “dẫn chứng”. Ông cho biết Saigon Times Group hoàn toàn không có ý
định tiến lên thành lập một tập đoàn báo chí, nhất là khi ở Việt Nam chưa có định nghĩa cụ
thể thế nào là một tập đoàn báo chí, lại chưa có cơ chế phù hợp. Saigon Times Group
muốn phát triển theo hướng tự thân vận động. Đối với Saigon Times Group, ý nghĩa thực
sự của chủ trương hình thành tập đoàn báo chí ở Việt Nam nằm ở chỗ: tạo điều kiện thông
thoáng hơn cho báo chí làm kinh tế. Danh nghĩa “tập đoàn báo chí” sẽ là cái đến sau, một
khi các cơ quan báo chí đã phát triển toàn diện ở một mức độ nào đó.
Nhìn vào quá trình hình thành và phát triển của Saigon Times Group, có thể thấy
họ rất thận trọng trong từng bước đi, và luôn tuân thủ theo chiến lược đề ra ngay từ buổi
đầu (15 năm trước): hướng đến việc báo chí làm kinh tế. Sớm tìm hiểu về thế giới, so sánh
thế và lực hiện tại của bản thân, Saigon Times Group biết rõ vị trí của mình, không vội
vươn lên “tập đoàn báo chí” theo kiểu “dục tốc bất đạt”.
Đối với chủ trương hình thành tập đoàn báo chí ở Việt Nam, cũng như các cơ quan
báo chí khác, Saigon Times Group đưa ra đề xuất về vai trò của nhà nước: phải đưa ra
được định nghĩa về tập đoàn báo chí, phải tạo ra cơ chế để cơ quan báo chí được đối xử
đúng nghĩa như một doanh nghiệp.
2.6. Tuổi Trẻ:
Tuổi Trẻ là cơ quan khá “im hơi lặng tiếng” trong vấn đề thành lập tập đoàn báo chí,
kể cả trước và sau khi có Quyết Định 219. Mặc dù vậy, đây là một trong số những cơ quan
báo chí có thế và lực mạnh nhất nước.
Về thế, Tuổi Trẻ ngang với Tiền Phong.
Về lực, Tuổi Trẻ là cơ quan tự hạch toán kinh tế sớm nhất (từ năm 1980) và hoạt
động có hiệu quả nhất (riêng hoạt động quảng cáo đã thu về 270 tỉ đồng mỗi năm [21]).
Hiện tại, Tuổi trẻ có 4 ấn phẩm (nhật báo Tuổi Trẻ, Tuổi Trẻ Cuối Tuần, Tuổi Trẻ cười,
Tuổi Trẻ Online), với con số phát hành ấn phẩm chính (nhật báo Tuổi Trẻ) gần 400.000 ấn
bản/kì, là tờ báo có uy tín rộng rãi trong nhân dân. Cơ sở vật chất của báo Tuổi Trẻ vào
hàng hiện đại nhất nước. Hoạt động phát hành và quảng cáo trên thực tế độc lập với hoạt
động báo chí. Đội ngũ làm báo năng động, trình độ cao. Tờ báo có mối quan hệ hợp tác với
nhiều cơ quan báo chí trên thế giới. Bên cạnh đó, Tuổi Trẻ còn thành lập Công ty Thế kỉ 21
để kinh doanh địa ốc, và đang bước đầu kinh doanh xuất bản sách, du lịch.
Về ý chí, vào tháng 7/2005, báo Tuổi Trẻ đã đặt mục tiêu “đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng, phát hành hàng triệu bản/ngày, phấn đấu để trở thành một tập đoàn báo chí hùng
mạnh.”[21]
Như vậy, về lý thuyết, Tuổi Trẻ hội đủ các yêu cầu để tuyên bố thành lập tập đoàn
báo chí hiểu theo kiểu Trung Quốc trong thời điểm hiện tại. Vướng mắc duy nhất của cơ
quan này là cơ chế, chính sách từ phía nhà nước.
Tuy báo Tuổi Trẻ cũng không phúc đáp thư mời phỏng vấn, người thực hiện đề tài
NCKH đã có một cuộc tiếp xúc với ông Trương Quang Vĩnh, Phó Tổng Biên Tập báo Tuổi
Trẻ. Ông Vĩnh cho rằng Tuổi Trẻ chỉ mới ở giai đoạn “manh nha”, chỉ mới đi “những bước
đi đầu tiên” tiến tới thành lập tập đoàn báo chí. Và như vậy, Tuổi Trẻ đang có những dự
định mới nhằm gia tăng nội lực của mình: ra thêm nhiều ấn phẩm nhắm đến từng đối tượng
cụ thể, thuê kênh truyền hình cáp, …
Cũng như Saigon Times Group, Tuổi Trẻ tin rằng mình phát triển đúng hướng và
không quá quan trọng về danh nghĩa “tập đoàn báo chí”. Điều báo Tuổi Trẻ quan tâm nhân
chủ trương hình thành tập đoàn báo chí là Nhà nước tháo gỡ những ràng buộc bất hợp lý
(nhất là trong hoạt động quảng cáo), định ra cơ chế quản lý các cơ quan báo chí (theo luật
doanh nghiệp), cần có những quy định cụ thể trong luật báo chí phù hợp với tình hình mới.
Tiểu kết
Trong khi giới báo chí ngoài Bắc bàn tán sôi nổi xung quanh chủ trương hình thành
tập đoàn báo chí của Nhà nước, giới báo chí trong Nam chỉ âm thầm chuẩn bị. Trong khi
Nhà nước phân trách nhiệm cho các báo, các báo lại đặt vấn đề về chính sách đối với nhà

40
nước. Về vấn đề này, có lẽ trách nhiệm đang đặt năng lên Nhà nước, bởi các báo đã có
chiến lược phát triển hoạt động kinh tế báo chí lâu rồi. Trong khi chờ thời gian để các báo
tích luỹ nội lực, kiến nghị Nhà nước cần sớm hoàn thiện khâu hoạch định cơ chế, chính
sách pháp luật.

41
KẾT LUẬN
Những năm gần đây, đời sống báo chí Việt Nam có nhiều biến chuyển mạnh mẽ.
Tuy cơ chế chưa có, nhưng thị trường truyền thông về cơ bản đã hình thành. Từ chỗ chỉ là
công cụ chính trị - tư tưởng của Đảng, báo chí từng bước bung ra làm kinh tế (cải tiến nội
dung tăng doanh số phát hành, thu hút quảng cáo, tham gia vào các hoạt động kinh tế
khác). Từ thực tiễn báo chí làm ăn có hiệu quả mà vẫn duy trì được định hướng chính trị,
những người lãnh đạo đã có sự đổi mới trong tư duy, tạo điều kiện thông thoáng hơn cho
báo chí tham gia vào hoạt động kinh tế. Đó là nguyên nhân dẫn đến chủ trương thành lập
tập đoàn báo chí trước năm 2010, thực chất là sự hợp thức hoá hoạt động kinh doanh báo
chí, tiến đến một nền kinh tế báo chí trong nay mai.
Tuy nhiên, từ chủ trương đến thực tế còn cần một khâu chuẩn bị lâu dài, cả về tiềm
lực của các cơ quan báo chí lẫn cơ chế, chính sách của nhà nước, nhất là trong hoàn cảnh
nước ta chưa cho phép có báo chí tư nhân mà chỉ mới cho phép xã hội hoá một số lĩnh vực
có liên quan đến báo chí - truyền thông (như xuất bản, phát hành).
Trong bước chuẩn bị về tiềm lực, một việc hết sức quan trọng là phải hiểu rõ về cái
gọi là “tập đoàn báo chí”. Ở đầu chương 2, người thực hiện đề tài NCKH SV này tạm định
nghĩa: “tập đoàn báo chí”là một tập đoàn kinh tế hoạt động đa dạng trong lĩnh vực truyền
thông, có thể có hạt nhân là một cơ quan báo in, báo hình, hoặc bất cứ loại hình báo chí
nào khác, và cũng có thể tham gia vào một số lĩnh vực kinh doanh ngoài truyền
thông.”[41]
Tuy nhiên, so với lịch sử phát triển của báo chí thế giới, ở Việt Nam, dù rất nhanh
nhạy, tất cả các cơ quan báo chí chỉ mới ở bước “manh nha” làm kinh tế. Do đó, việc học
tập kinh nghiệm của các tập đoàn báo chí nước ngoài là một việc không thể thiếu.
Báo chí Mĩ được đánh giá là một trong những nền báo chí mạnh nhất trên thế giới.
Các tập đoàn truyền thông của Mĩ có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn trên toàn cầu. Kinh
nghiệm tổ chức, quản lý, cũng như kinh nghiệm làm kinh tế báo chí của Mĩ đã và đang
được nhiều quốc gia trên thế giới học hỏi, trong đó có cả Trung Quốc. Điều cần phải cân
nhắc trong quá trình tiếp thu kinh nghiệm của báo chí Mĩ chính là điều kiện kinh tế - chính
trị của Mĩ khác với Việt Nam. Nước Mĩ chủ trương tự do hoá tối đa lĩnh vực kinh tế báo
chí. Chính phủ Mĩ từng đặt ra các luật lệ giới hạn sở hữu truyền thông (tức là giới hạn kinh
doanh truyền thông), song cũng chính cơ quan làm luật của nước này lại đấu tranh để tháo
dỡ từng điều luật một. Điều đó tạo nên đặc điểm phức tạp, chồng chéo của nền kinh tế báo
chí Mĩ. Các nhà xã hội học truyền thông cho rằng đó là mầm mống của chủ nghĩa độc
quyền truyền thông, là nguy cơ đe doạ tính dân chủ, tính minh bạch trong hoạt động báo
chí, làm suy giảm chất lượng của báo chí. Do vậy, khi học tập mô hình tập đoàn truyền
thông Mĩ, cần chú trong đến tính chuyên nghiệp trong điều hành kinh tế báo chí và rút kinh
nghiệm về mặt hoạch định chính sách.
Xét về thực lực, các tập đoàn báo chí của Trung Quốc không mạnh bằng các tập
đoàn báo chí Mĩ, và thực chất họ cũng chỉ là “học trò” của các tập đoàn truyền thông Mĩ.
Điều đáng học ở Trung Quốc chính là mô hình quản lý tương đối phù hợp với điều kiện
chính trị của một quốc gia theo đuổi chủ nghĩa xã hội như Việt Nam. Mặt khác, cần học
Trung Quốc ở cách ứng xử và “chia sẻ kinh nghiệm” với các đối tác truyền thông lớn trên
thế giới.
Nền báo chí Singapore tạm được coi là mạnh nhất khu vực Đông Nam Á. Lợi thế
của các tập đoàn báo chí ở Singapore là sự hậu thuẫn tuyệt đối của Chính phủ thông qua cơ
chế, chính sách. Tuy nhiên, mô hình quản lý của Singapore chỉ phát huy tác dụng đối với
các quốc gia không đông dân, bộ máy công quyền linh hoạt, gọn nhẹ. Mô hình này có thể
ứng dụng ở Việt Nam, nhưng không phải là trên phạm vi toàn quốc, mà chỉ nên thí điểm ở
một vài thành phố năng động, tự chủ. Điều đáng học nhất ở Singapore chính là cách triển
khai bài bản những gì đã học được từ các tập đoàn trên thế giới, là tham vọng đưa truyền
thông vươn ra ngoài lãnh thổ, đặc biệt là ở chiến lược “lên ngôi” trong thị trường truyền
thông khu vực – nơi mà tiềm năng của thị trường truyền thông còn dồi dào.

42
Ở Việt Nam hiện nay, tuy một số cơ quan báo chí nhận được sự khuyến khích từ
phía nhà nước, nhưng kinh nghiệm trên thế giới cho thấy tính hiệu quả của các tập đoàn
báo chí chỉ có thể đạt được nếu tờ báo có sự phát triển căn cơ về thế và lực, không nên chủ
quan, duy ý chí. Mặt khác, việc có thành lập được tập đoàn báo chí hay không còn phụ
thuộc vào khả năng đổi mới tư duy và tốc độ hoạch định chính sách của nhà nước.
Năm 2010 không phải là một mốc quá gần cho sự ra đời của các tập đoàn báo chí,
nhưng là là một mốc quá gần cho sự lớn mạnh của các tập đoàn này. Tuy nhiên, nhìn lại
tốc độ phát triển của đời sống báo chí – truyền thông Việt Nam trong 5 năm qua, có lẽ mục
tiêu trở thành tập đoàn báo chí quy mô quốc gia không phải là quá khó thực hiện.

[1] ngay cả những số liệu được đang tải trên các phương tiện truyền thông cũng không hề
trích dẫn nguồn, người viết phải gặp nhiều vất vả khi muốn truy lại nguyên gốc của các số
liệu

[2] Lấy nguồn từ bài phỏng vấn đồng chí Nguyễn Khoa Điềm – Trưởng ban Tư tưởng –
Văn hoá Trung ương đăng trên Tạp chí Tư tưởng – Văn hóa, 6/2005 và đăng lại trên trang
web của Đảng Cộng sản Việt Nam; bài viết “Báo chí với sự nghiệp đổi mới đất nước” đăng
trên Tạp chí Người làm báo số tháng 8/2005, tác giả Hà Quốc Tri
[3] Tạp chí Người làm báo, tháng 02/2006, trang 22 – 23
[4] Tác giả Văn Hùng đã phân chia mảng tạp chí thành 4 loại, theo cơ quan chủ quản. Tuy
nhiên, vì đối tượng của đề tài NCKH này, người viết đã nhóm 3 loại đầu lại thành một
nhóm. Sau đây là nguyên văn cách chia của tác giả Văn Hùng:
“Một là, tạp chí khoa học.
Hai là, tạp chí trực thuộc liên hiệp hội, các hội khoa học, hội kinh tế, hội nghề nghiệp, đoàn
thể chính trị - xã hội, các hội phi Chính phủ … Dạng này hiện có khoảng gần hai trăm đầu
tạp chí. Hầu hết các tạp chí này được xếp vào đơn vị sự nghiệp có thu, hoạt động theo cơ
chế tự trang trải.
Ba là, tạp chí thuộc các bộ, ngành, Tổng công ty thường gọi là tạp chí chuyên ngành.
Đương nhiên, trong số này có thể bao hàm cả nội dung khoa học.”

[5] Theo giáo trình của GV Bùi Huy Lan


[6] “media – truyền thông: hiểu một cách đầy đủ bao gồm cả lĩnh vực sách, quảng cáo và
điện ảnh
[7] Media economics (kinh tế báo chí, kinh tế truyền thông) bao hàm các vấn đề kinh tế cả
về lí thuyết lẫn thực hành riêng cho các lĩnh vực truyền thông. Mối quan tâm đặc biệt của
kinh tế báo chí là các chính sách kinh tế, hoạt động của các công ty truyền thông, trên các
lĩnh vực như báo in (journalism) và ngành công nghiệp tin tức (news industry), sản xuất
phim ảnh (film production), các chương trình giải trí (entertainment programs), in ấn
(print), phát hình – phát thanh (broadcast), quảng cáo (advertising) và giao tế cộng đồng
(public relations). Sự bãi bỏ các quy định trong lĩnh vực truyền thông, sở hữu truyền thông
và sự tập trung, thị phần, các chiến lược kinh tế cạnh tranh, “thuế truyền thông” (media
tax) là đặc điểm kinh tế báo chí Mĩ. Kinh tế báo chí liên quan đến cả hai lĩnh vực kinh tế
và xã hội .
[8] Theo giáo trình chép tay môn “Lịch sử báo chí thế giới” của GV Đào Ngọc Chương
[9] Theo giáo trình chép tay của GV Đào Ngọc Chương
[10] Tên gọi của một bộ phim phỏng theo hình mẫu của các ông chủ báo giàu sụ
[11] Theo giáo trình chép tay của GV Đào Ngọc Chương

43
[12] Theo giáo trình chép tay của GV Đào Ngọc Chương
[13] Theo giáo trình chép tay của GV Đào Ngọc Chương
[14] Theo trang web http://www.cjr.org/tools/owners/, phần Who Owns What
[15] (Việt NamE, ấn bản điện tử tiếng Anh của tờ Thanh Niên, và một số trang web khác)
[16] Trang web http://www.wan-press.org/, 02/2006
[17] Nguyên văn: A media conglomerate describes companies that own large numbers of
companies in various mass media such as television, radio, publishing, movies, and the
Internet. A conglomerate is a large company that consists of divisions of seemingly
unrelated businesses.
[18] Nguyên văn: It is questionable whether media companies are unrelated, as of 2006
[19] Nguyên văn: A few global corporations are horizontally integrated; that is, they
control a significant slice of specific media sectors, like book publishing, which has
undergone extensive consolidation in the late nineties. "We have never seen this kind of
concentration before," says an attorney who specializes in publishing deals. But even more
striking has been the rapid vertical integration of the global media market, with the same
firms gaining ownership of content and the means to distribute it. What distinguishes the
dominant firms is their ability to exploit the "synergy" among the companies they own.
[20] Trang 28: concentration may occur vertially, i.e. integrating formerly independent
economic entities of different production levels into one company, or horizontally, i.e.
merging company of the same production level.
[21] Robert W. McChesney, The New Global Media: It’s a Small World of Big
Conglomerates, 1999, đoạn “Indeed, the genius of the commercial-media system is the
general lack of overt censorship. As George Orwell noted in his unpublished introduction
to Animal Farm, censorship in free societies is infinitely more sophisticated and thorough
than in dictatorships, because “unpopular ideas can be silenced, and inconvenient facts
kept dark, without any need for an official ban.”
[22] Nghiên cứu này bao quát sự phát triển của nền báo chí TRUNG QUốC tính từ năm
1949 đến nay, khảo sát 5 khu vực chính: Guangzhou, Beijing, Shanghai, Chengdu and
Xi’an, tập trung chú ý vào sự trỗi dậy của các “news companies” lớn (các cơ quan báo chí
hoạt động như các doanh nghiệp) và sự hình thành của các “press groups” (tập đoàn báo
chí).
[23] As China transformed from a planned to a market economy, the newspaper industry
gradually developed as well, moving towards market competition. A publisher’s survival
now depends more on its own business operations than on governmental support.
Dominant positions of government subscriptions have been taken over by individual
subscriptions. Competition among publishers has become more intense as they seek to
attract readers.
Due to strong competition among newspaper companies and the liberalization of China’s
publishing industry, in line with WTO commitments, more news companies are
consolidated into press groups.

[24] Ở TPHCM, nhà báo Linh Hà (Võ Như Lanh) của tờ Thời báo Kinh tế Sài Gòn là
người đặc biệt tâm huyết với vấn đề báo chí phải tham gia hoạt động kinh tế của nước nhà
như một doanh nghiệp. Ông là tác giả đầu tiên viết về mô hình tập đoàn báo chí Trung
Quốc, đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn ngày 17/12/1998. Trong bài ký sự của mình, tác
giả đề cập đến đến 2 tập đoàn: tập đoàn báo chí Thâm Quyến và tập đoàn báo chí Phương
Nam. Riêng đối với tập đoàn báo chí Thâm Quyến, vào thời điểm năm 1998, dù là một

44
trong bốn tập đoàn báo chí mạnh nhất về kinh tế ở Trung Quốc, nhưng vẫn chưa chính
thức trở thành tập đoàn. Đến năm 1998, TRUNG QUốC chỉ mới cấp phép cho 6 tập đoàn
báo chí: 2 ở Bắc Kinh, 1 ở Thượng Hải, và 3 ở Quảng Châu. Lưu ý ở thời điểm này, quy
mô của các tập đoàn báo chí khá nhỏ. Ngoài ra, tuy đây là tài liệu cũ nhưng lại rất có ích
cho nền báo chí Việt Nam cũng chỉ mới đi những bước đầu tiên trong việc hình thành tập
đoàn báo chí.
[25] Vào khoảng cuối tháng 3-2005, báo SGGP đã có chuyến tham quan và làm việc với
một số tờ báo ở Trung Quốc. Tháng 5/2005, báo SGGP cho đăng 3 kì “Trung Hoa báo
nghiệp ký sự” liên tiếp, mô tả và rút tỉa kinh nghiệm của các tập đoàn báo chí Trung Quốc.
Phần này được viết chủ yếu dựa theo kì 1 “Từ Nhân Dân nhật báo đến Bắc Kinh tập đoàn
báo nghiệp” – kì này ghi nhận hiện tượng báo Đảng làm kinh tế và sự khang trang của một
trong những cơ quan báo chí hàng đầu Trung Quốc: Beijing Daily Group (tập đoàn báo chí
Bắc Kinh nhật báo). Không biết vì lí do gì, tác giả Nguyễn Đức cho rằng Nhân Dân nhật
báo không phải là một tập đoàn. Tôn trọng ý kiến của tác giả, người viết tạm thời không
giới thiệu lại Nhân Dân nhật báo dưới cái nhìn như một tập đoàn, mà chỉ giới thiệu tập
đoàn Bắc Kinh nhật báo.
[26] Bắc Kinh nhật báo có số phát hành 400.000 số/kì, cao hơn tờ nhật báo Tuổi Trẻ của
Việt Nam (xấp xỉ 370.000 số/kì)
[27] Phần giới thiệu này dựa trên kì 2 “Văn Hối Tân Dân báo: Mô hình tập đoàn kinh tế
truyền thông” (báo SGGP). Kì này tập trung mô tả tỉ mỉ mô hình tập đoàn báo chí Văn Hối
Tân Dân báo (Wenhui-Xinmin United Press Group” ở Thượng Hải.
[28] Phần giới thiệu này dựa trên kì 3 “Quảng Châu nhật báo – người khổng lồ tỉnh lẻ”
(báo SGGP), tập trung mô tả về tập đoàn báo chí đầu tiên của TRUNG QUốC.
[29] Thông qua website www.smeg.com.cn (bản tiếng Anh)
[30] Phần viết này chủ yếu được thực hiện trên cơ sở tham khảo các bài nhận định đăng
trên tạp chí Nghề Báo.
[31] Người thực hiện đề tài NCKH đã đổi tên mục 3.4. Xây dựng mạng lưới hệ thống kỹ
thuật mới lại như trên cho dễ hiểu.
[32] Theo Brochure của SPH, phần Giao tiếp cộng đồng
[33] Theo brochure In Touch
[34] At SPH, human resources and talent are our most cherished
[35] Đề án “Thí điểm cải cách thể chế ngành văn hoá” (7-2003) của Trung Quốc đánh dấu
mốc mới trong cải cách công nghiệp truyền thông của Trung Quốc. Đề án này có những
điểm nổi trội như sau: ngành truyền thông được chia thành hai khu vực: công ích phi lợi
nhuận và thương mại; các cơ quan báo chí của Trung Quốc tăng cường tính độc lập về tài
chính, cắt bỏ bao cấp; một số tập đoàn báo chí cổ phần hoá và niêm yết trên thị trường
chứng khoán; khối tư nhân được phép đầu tư vào một số kênh truyền hình hoặc phụ trương
các tờ báo; nhà đầu tư nước ngoài được phép tham gia đầu tư trong khâu phát hành hoặc
bán báo ra nước ngoài . Mặt khác, để thực hiện mục tiêu tạo ra “những thương hiệu báo chí
đạt tầm cỡ thế giới”, chính phủ trung ương Trung Quốc đã chọn ra tám tờ báo toàn quốc và
chuyển đổi những tờ này thành các công ty cổ phần với đa số cổ phần do nhà nước nắm
giữ, đồng thời Trung Quốc cho phép các tập đoàn báo chí nước ngoài giới thiệu nguồn
vốn, kĩ năng quản lí, kinh nghiệm hoạt động nghề nghiệp và điều hành cho Trung Quốc.
Đây là một bước đi khôn ngoan, ở việc Trung Quốc không dựa hoàn toàn vào nguồn đầu tư
nước ngoài mà biết huy động sức dân (cổ phần hoá), ở lập luận “Trung Quốc cần vốn để
mở rộng, còn các đối tác nước ngoài muốn khai thác “mỏ vàng” trong khu vực báo chí của
Trung Quốc”, và cả ở thái độ từng bước tự do hoá thị trường báo chí và xuất bản Trung
Quốc nhằm “mài sắc” sức cạnh tranh của mình [36], [10].

45
[36] Dựa trên hai bài viết đăng trên tạp chí Nghề Báo của PV Nhị Hà: “Điều quan trọng
nhất của Nghề Báo là phải tôn trọng sự thật!” (Nghề Báo số 21, tháng 7/2004), “Để nên
danh phận phải hội đủ thế và lực!” (Nghề Báo số 38, tháng 12/2005)
[37] Ông Dương Xuân Nam có ý cho rằng tổng biên tập nên đồng thời là chủ báo, và như
vậy, người làm tổng biên tập cần phải là người thực sự có năng lực, kinh nghiệm, điều
kiện, dám nghĩ dám làm, bảo đảm hoạt động hiệu quả của cơ quan báo chí.
[38] Phần viết này được xây dựng dựa trên các bài phỏng vấn “Ông Nguyễn Anh Tuấn –
Tổng Biên Tập Báo điện tử VIETNAMNET: “Xây dựng VietnamNet thành công ty truyền
thông đa phương tiện, đa loại hình báo chí” Tạp chí Nghề Báo 37 – 11/2005; “Nhà báo
Nguyễn Anh Tuấn: Cách nói, cách nhìn của chúng ta cũng cần phải khác”, Tạp chí Người
làm báo, tháng 1/2006, trang 19 – 20
[39] Phần viết dựa vào bài phỏng vấn Tổng Biên Tập Báo Thanh Niên của nhà báo Ngô
Thị Kim Cúc
[40] Xin xem thêm phụ lục
[41] Xin đọc lại Chương 2.2, phần tìm hiểu về khái niệm “tập đoàn báo chí”

46

You might also like