• Cuối 1944 đầu 1945 chiến tranh thế giới thứ hai dần bước vào giai đoạn kết thúc. Quân đội Liên Xô mở cuộc tổng tiến công về phía Beclin hang ổ của phát xít Đức, lần lượt giải phóng các nước Trung, Đông Âu. • Đêm 8-5-1945 phát xít Đức đầu hàng đồng minh không điều kiện. • Phát xít Nhật đứng trước nguy cơ thất bại trên mọi mặt trận • Quân đội Pháp ráo riết chuẩn bị kế hoạch chiếm lại Đông Dương ngay sau khi quân Đồng Minh tiến vào Đông Dương đê tiến công Nhật. • Tối ngày 9-3-1945 Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương. Quân Pháp nhanh chóng đầu hàng. • Trước tình hình đó, ngày 12-3-1945 Ban Thường vụ ban chấp hành trung ương Đảng đã ra chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Hội nghị nhận định là cuộc đảo chính đã tạo nên một tình hình khủng hoảng chính trị sâu sắc, điều kiện của cuộc tổng khởi nghĩa sẽ nhanh chóng chín muồi, đối tượng của cách mạng có chỗ thay đổi. • Về tình thế cách mạng ban chỉ thị nhận định: điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi vì Pháp tan rã nhưng Nhật chưa hoang mang, do dự đến mức cực điểm. Các tầng lớp trung gian chưa nghiêng hẳn về phía cách mạng, còn đội tiên phong vẫn còn đang ở giai đoạn chuẩn bị chưa sẵn sàng cho chiến đấu. Từ đó ban chỉ thị quyết định: “Phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa”. 2) Cao trào kháng Nhật cứu nước của quân và dân ta Từ ngày 12-3-1935 trở đi, ở các tỉnh Việt Bắc, Cứu Quốc Quân phối hợp với lực lượng tự vệ và nhân dân địa phương đã chuyển ngay sang tiến công quân địch, giải phóng nhiều vùng rộng lớn. Cao trào diễn ra sôi nổi đã gây ra được rất nhiều tiếng vang và khá nhiều thành quả: Thành lập uỷ ban cách mạng lâm thời châu Tự Do Khởi nghĩa Ba Tơ và thành lập đội du kích Ba Tơ Một số hoạt động tiêu biểu ở Việt Bắc: • Từ ngày 2-10/4/1945 Cứu Quốc Quân đã bao vây và giải phóng được Châu Vũ Nhai. Ở Bắc Giang, tước khí giới của bọn lính ở phủ Yên Thế và tổ chức các cuộc mít tin ở Nhã Nam. Ở Lạng Sơn, phá kho thóc đồn Nam Nhi, giải phóng Mỏ Nhai, châu Bằng Mạc. • Cuối tháng 4-1945 một khu vực rộng lớn gồm hầu hết các xã, châu, huyện ở Cao-Bắc-Lạng-Hà-Tuyên-Thái đã được giải phóng và thành lập chính quyền cách mạng. Hội nghị quân sự Bắc Kỳ (tại Bắc Giang) đã quyết định: “tình thế đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật, để chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ”. Đội du kích Âu Cơ được thành lập, không ngừng phát triển và được củng cố, nhanh chóng trở thành lực lượng nòng cốt tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền trên địa bàn. Đập tan cuộc tổng tiến công hơn 2000 quân của phát xít Nhật. Phong trào cách mạng ở Nam Bộ trước ngày tổng khởi nghĩa: o Ở Bến Tre: lực lượng vũ trang lấy tên là Cứu quốc quân, đến gần ngày khởi nghĩa thì tổ chức thành Cảm tử quân. o Ở Sa Đéc: mỗi xa lập ra một đội xung phong vũ trang. o Ở Mỹ Tho: tổ chức được ba trung đội du kích bên cạnh mở thêm các lớp huấn luyện về du kích cho các cán bộ trong cơ sở. o Tại Sài Gòn: phong trào cách mạng công nhân, thanh niên diễn ra hết sức rầm rộ, sôi nổi. Cao trào kháng Nhật cứu nước của quân dân ta Tổng khởi nghĩa tháng tám thắng lợi 1) Thời cơ lịch sử Mùa thu năm 1945 Liên Xô thực hiện cam kết ở hội nghị Yanta tuyên chiến với Nhật, đánh tan đội quân Quan Đông tinh nhuệ của chúng. Cùng lúc Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki. Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện. Trước đó vào ngày 8-5-1945 phát xít Đức đã đầu hàng Đồng Minh, ngày 14-8-1945 thế chiến thứ hai kết thúc. Tình hình thế giới lúc này đã có những ảnh hưởng tích cực tới nước ta. Cách mạng nước ta tiến nhanh đến ngày quyết định. 2) Tổng khởi nghĩa tháng tám thắng lợi o Trước tình hình phát triển nhanh chóng, Trung ương quyết định họp Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến 15-8-1945. o Ngay đêm 13-8-1945, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh tổng khởi nghĩa . o Ngày 16-8-1945, Quốc dân Đại hội họp tại Tân Trào đã tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng và mười chính sách của Việt Minh, quyết định đặt tên nước là Việt Nam dân chủ cộng hoà, xác định quốc kỳ, quốc ca và thành lập Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam. Ngay sau Đại hội, chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi tổng khởi nghĩa. o Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Từ 14-8-1945, các đơn vị giải phóng quân đã liên tiếp hạ nhiều đồn Nhật thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái và hỗ trợ quần chúng tiến lên giành chính quyền. o Ngày 18-8-1945, nhân dân các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Phúc Yên, Thái Bình, Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Quảng Nam và Khánh Hoà giành chính quyền ở tỉnh lỵ. o Ngày 19-8-1945, hàng chục vạn quần chúng xuống đường biểu tình, tuần hành. Trước khí thế áp đảo của quần chúng khởi nghĩa, hơn một vạn quân Nhật ở Hà Nội tê liệt, không dám chống cự. Chính quyền về tay nhân dân. o Ngày 23-8-1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Huế; ngày 25-8-1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Sài Gòn. Chỉ trong vòng 15 ngày (từ 14 đến 28-8-1945) cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công trên cả nước, chính quyền về tay nhân dân. o Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.